Làm người khác bị thương bị xử lý như thế nào?

Căn cứ vào tỷ lệ thương tật của người bị hại, tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi cố ý gây thương tích cho người khác mà người gây thương tích có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự hoặc bị xử phạt vi phạm hành chính.

Cố ý gây thương tích, được hiểu là hành vi dùng vũ lực hoặc thủ đoạn khác gây tổn thương cho cơ thể của người khác.

Luật sư tư vấn pháp luật qua tổng đài (24/7) gọi: 1900 6198

Thứ nhất, căn cứ pháp lý

Điều 134 Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017 quy định về tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại sức khỏe cho người khác như sau:
"1. Người nào cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 11% đến 30% hoặc dưới 11% nhưng thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm: (a) Dùng vũ khí, vật liệu nổ, hung khí nguy hiểm hoặc thủ đoạn có khả năng gây nguy hại cho nhiều người; (b) Dùng a-xít nguy hiểm hoặc hóa chất nguy hiểm; (c) Đối với người dưới 16 tuổi, phụ nữ mà biết là có thai, người già yếu, ốm đau hoặc người khác không có khả năng tự vệ; (d) Đối với ông, bà, cha, mẹ, thầy giáo, cô giáo của mình, người nuôi dưỡng, chữa bệnh cho mình; (đ) Có tổ chức; (e) Lợi dụng chức vụ, quyền hạn; (g) Trong thời gian đang bị giữ, tạm giữ, tạm giam, đang chấp hành án phạt tù, đang chấp hành biện pháp tư pháp giáo dục tại trường giáo dưỡng hoặc đang chấp hành biện pháp xử lý vi phạm hành chính đưa vào cơ sở giáo dục bắt buộc, đưa vào trường giáo dưỡng hoặc đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc; (h) Thuê gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác hoặc gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác do được thuê; (i) Có tính chất côn đồ; (k) Đối với người đang thi hành công vụ hoặc vì lý do công vụ của nạn nhân. 2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 02 năm đến 06 năm: (a) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 31 % đến 60%; (b) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 02 người trở lên mà tỷ lệ tổn thương cơ thể của mỗi người từ 11% đến 30%; (c) Phạm tội 02 lần trở lên; (d) Tái phạm nguy hiểm; (đ) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 11% đến 30% nhưng thuộc một trong các trường hợp quy định tại các điểm từ điểm a đến điểm k khoản 1 Điều này. 3. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 05 năm đến 10 năm: (a) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ tổn thương cơ thể 61% trở lên, nếu không thuộc trường hợp quy định tại điểm b khoản 4 Điều này; (b) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 02 người trở lên mà tỷ lệ tổn thương cơ thể của mỗi người từ 31% đến 60%; (c) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 31 % đến 60% nhưng thuộc một trong các trường hợp quy định tại các điểm từ điểm a đến điểm k khoản 1 Điều này; (d) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 02 người trở lên mà tỷ lệ tổn thương cơ thể của mỗi người từ 11% đến 30% nhưng thuộc một trong các trường hợp quy định tại các điểm từ điểm a đến điểm k khoản 1 Điều này. 4. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 07 năm đến 14 năm: (a) Làm chết người; (b) Gây thương tích làm biến dạng vùng mặt của người khác mà tỷ lệ tổn thương cơ thể 61% trở lên; (c) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 02 người trở lên mà tỷ lệ tổn thương cơ thể của mỗi người 61% trở lên; (d) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ tổn thương cơ thể 61 % trở lên nhưng thuộc một trong các trường hợp quy định tại các điểm từ điểm a đến điểm k khoản 1 Điều này; (đ) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 02 người trở lên mà tỷ lệ tổn thương cơ thể của mỗi người từ 31% đến 60% nhưng thuộc một trong các trường hợp quy định tại các điểm từ điểm a đến điểm k khoản 1 Điều này. 5. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 12 năm đến 20 năm hoặc tù chung thân: (a) Làm chết 02 người trở lên; (b) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 02 người trở lên mà tỷ lệ tổn thương cơ thể của mỗi người 61% trở lên nhưng thuộc một trong các trường hợp quy định tại các điểm từ điểm a đến điểm k khoản 1 Điều này. 6. Người nào chuẩn bị vũ khí, vật liệu nổ, hung khí nguy hiểm, a-xít nguy hiểm, hóa chất nguy hiểm hoặc thành lập hoặc tham gia nhóm tội phạm nhằm gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 02 năm hoặc phạt tù từ 03 tháng đến 02 năm."

Như vậy, hành vi làm người khác bị thương có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội cố ý gây thương tích nếu tỷ lệ thương tích từ 11% trở lên hoặc dưới 11% nhưng hành vi gây thương tích cho người khác mang tính chất, mức độ nguy hiểm được miêu tả trong khoản 1 Điều 134 Bộ luật Hình sự năm 2015. Trường hợp không thỏa mãn các dấu hiệu được mô tả trong cấu thành tội phạm của tội cố ý gây thương tích thì người gây thương tích có thể bị xử phạt vi phạm hành chính theo quy định của pháp luật về xử phạt vi phạm hành chính.

Thứ hai, về các yêu tố cấu thành tội phạm cố ý gây thương tích

(i) Mặt khách quan của tội phạm

Về hành vi khách quan: Hành vi dùng vũ lực (có sử dụng hung khí hoặc không sử dụng hung khí) hoặc thủ đoạn khác tác động lên cơ thể người khác làm người đó bị thưởng hoặc bị tổn hại sức khỏe là hành vi nguy hiểm cho xã hội.

Việc dùng vũ lực có thể chỉ bằng sức mạnh cơ thể (như dùng tay đấm, dùng chân đá) hoặc có kèm theo hung khí (như gậy gộc, dao, búa…) tác động lên cơ thể của nạn nhân.

Việc dùng thủ đoạn khác (gián tiếp) có thể là xúi giục, ép buộc người khác dùng vũ lực đối với nạn nhân hoặc dùng các chất nguy hiểm như axit, chất gây nổ,... để gây thương tổn cho nạn nhân. Trong trường hợp xúi giục thì cả người xúi giục và người thực hiện hành vi đều trở thành chủ thể của tội phạm này, họ trở thành đồng phạm của nhau với vai trò là người xúi giục và người thực hành.

Về hậu quả: Hậu quả làm người khác bị thương hoặc bị tổn hại cho sức khoẻ từ 11% trở lên là dấu hiệu cấu thành cơ bản của tội này. Hậu quả gây thương tích cho người khác là bắt buộc, nếu thương tích không xảy ra hoặc thương tích nhẹ thì không bị truy cứu trách nhiệm hình sự.

Lưu ý: Trường hợp tỷ lệ thương tật dưới 11% nếu thuộc một trong các trường hợp sau đây thì người có hành vi gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của người khác vẫn phải chịu trách nhiệm hình sự, cụ thể là:
  • Dùng hung khí nguy hiểm (như súng, dao, lưỡi lê…) hoặc dùng thủ đoạn gây nguy hại cho nhiều người (như đổ thuốc độc xuống giếng có nhiều người sử dụng dẫn đến làm nhiều người bị tổn hại sức khoẻ…);
  • Gây cố tật nhẹ cho nạn nhân. Cố tật nhẹ là tật không chữa khỏi, nhưng tỷ lệ thương tích chỉ dưới 11%;
  • Phạm tội nhiều lần đốì với cùng một ngưòi (có hành vi gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của người khác từ hai lần trở lên) hoặc đối với nhiều người (từ hai người trở lên);
  • Đối với trẻ em (tức người dưới 16 tuổi), phụ nữ đang có thai, người già yếu, ốm đau hoặc người khác không có khả năng tự vệ;
  • Đối với ông, bà, cha, mẹ, người nuôi dưdng, thầy giáo, cô giáo của mình. Thầy, cô giáo có thể là người đang dạy hoặc đã là thầy cô giáo của người phạm tội;
  • Có tổ chức (là một hình thức đồng phạm đặc biệt, có nhiều người cùng thực hiện hành vi phạm tội với nhau, có kế hoạch, có sự phân công nhiệm vụ rõ ràng, có người chỉ huy);
  • Trong thời gian đang bị tạm giữ, tạm giam hoặc đang bị áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở giáo dục;
  • Thuê gây thương tích hoặc gây thương tích thuê;
  • Có tính chất côn đồ hoặc tái phạm nguy hiểm;
  • Để cản trở người thi hành công vụ hoặc vì lý do công vụ của nạn nhân.
(ii) Khách thể của tội phạm

Hành vi cố ý gây thương tích cho người khác đã xâm phạm đến sức khoẻ của người khác.

(iii) Mặt chủ quan

Tội phạm được thực hiện với lỗi cố ý, có thể là cố ý trực tiếp hoặc cố ý gián tiếp.

Điều 10 Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017 quy định:

"Cố ý phạm tội là phạm tội trong những trường hợp sau đây: 1. Người phạm tội nhận thức rõ hành vi của mình là nguy hiểm cho xã hội, thấy trước hậu quả của hành vi đó và mong muốn hậu quả xảy ra; 2. Người phạm tội nhận thức rõ hành vi của mình là nguy hiểm cho xã hội, thấy trước hậu quả của hành vi đó có thể xảy ra, tuy không mong muốn nhưng vẫn có ý thức để mặc cho hậu quả xảy ra."

(iv) Chủ thể của tội phạm

Chủ thể của tội này là bất kỳ người nào có năng lực trách nhiệm hình sự. Cụ thể: những người dưới 14 tuổi không phải chịu trách nhiệm hình sự về mọi tội phạm, người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi chỉ phải chịu trách nhiệm hình sự về tội cố ý gây thương tích theo khoản 3, 4, 5 Điều 134 Bộ luật Hình sự, những người từ đủ 16 tuổi trở lên phải chịu trách nhiệm về mọi hành vi phạm tội của mình.

Thứ ba: Về hình phạt.

Mức hình phạt đối với tội phạm này được chia thành bốn khung (tương ứng với 04 khoản quy định trong Điều 134 Bộ luật Hình sự), cụ thể như sau:

(i) Khung một (khoản 1): Có mức hình phạt là phạt cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ sáu tháng đến ba năm.

(ii) Khung hai (khoản 2): Có mức phạt tù từ 2 năm đến 6 năm;

(iii) Khung ba (khoản 3): Có mức phạt tù từ 5 năm đến 10 năm;

(iv) Khung bốn (khoản 4): Có mức phạt tù từ 7 năm đến 14 năm;

(v) khung năm (khoản 5): Có mức phạt tù từ 12 năm đến 20 năm hoặc tù chung thân.

Thứ tư, một số vấn để cần lưu ý

Nếu thuộc trường hợp quy định tại khoản 1 Điều 134 Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017, ngoài việc phải có những dấu hiệu cơ bản như đã phân tích thì chỉ được khởi tố khi có yêu cầu của bị hại hoặc người đại diện của bị hại là người dưới 18 tuổi, người có nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất hoặc đã chết. Nếu người bị hại không có đơn yêu cầu khởi tố thì không được truy cứu trách nhiệm hình sự người đã thực hiện hành vi cô’ ý gây thương tích, gây tổn hại sức khoẻ của người khác.

Trong trường hợp tuy có đơn yêu cầu khởi tố nhưng người bị hại hoặc người đại diện của bị hại đã rút yêu cầu khởi tố thì không có quyền yêu cầu lại, trừ trường hợp rút yêu cầu do bị ép buộc, cưỡng bức.

Tội phạm hoàn thành khi hậu quả xảy ra, tức là nạn nhân phải bị thương hoặc tổn hại sức khoẻ có tỉ lệ thương tật từ 11% trở lên, nếu tỉ lệ thương tật dưới 11% thì phải kèm theo một trong những tình tiết nêu ở khung 1 tội này (nêu ở mặt khách quan).

Trường hợp "làm chết người" thì nguyên nhân chết người phải là do hành vi cố ý gây thương tích gây ra chứ không phải do hành vi khách quan khác. Ví dụ: người bị thương tích chết là do không được cứu chữa kịp thời, đúng cách thì việc chết người không phải là tình tiết tăng nặng định khung để xác định trách nhiệm hình sự của người phạm tội.

Luật gia Nguyễn Thị Phương Hoa - Tổ tư vấn pháp luật Hình sự của Công ty Luật TNHH Everest - Tổng đài tư vấn pháp luật 1900 6198, tổng hợp.

Khuyến nghị:
  1. Bài viết được luật sư, chuyên gia của Công ty Luật TNHH Everest thực hiện nhằm mục đích nghiên cứu khoa học hoặc phổ biến kiến thức pháp luật, hoàn toàn không nhằm mục đích thương mại.
  2. Bài viết có sử dụng những kiến thức hoặc ý kiến của các chuyên gia được trích dẫn từ nguồn đáng tin cậy. Tại thời điểm trích dẫn những nội dung này, chúng tôi đồng ý với quan điểm của tác giả. Tuy nhiên, quý Vị đây chỉ nên coi đây là những thông tin tham khảo, bởi nó có thể chỉ là quan điểm cá nhân người viết.
  3. Trường hợp cần giải đáp thắc mắc về vấn đề có liên quan, hoặc cần ý kiến pháp lý cho vụ việc cụ thể, Quý vị vui lòng liên hệ với chuyên gia, luật sư của Công ty Luật TNHH Everest qua Tổng đài tư vấn pháp luật 19006198, E-mail: [email protected], [email protected].