Bình luận về dữ liệu điện tử trong Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015

Nhằm đáp ứng yêu cầu đấu tranh chống tội phạm, đặc biệt là các tội phạm sử dụng công nghệ cao, Bộ luật Tố tụng Hình sự (BLTTHS) năm 2015 bổ sung mới và quy định cụ thể về dữ liệu điện tử

Dữ liệu điện tử là ký hiệu, chữ viết, chữ số, hình ảnh, âm thanh hoặc dạng tương tự được tạo ra, lưu trữ, truyền đi hoặc nhận được bởi phương tiện điện tử. Dữ liệu điện tử có đặc điểm là dễ bị xóa hoặc thay đổi trong quá trình lưu trữ, truyền tải, sao chép… Dữ liệu điện tử được thu thập từ phương tiện điện tử, mạng máy tính, mạng viễn thông, trên đường truyền và các nguồn điện tử khác.

Luật sư tư vấn pháp luật qua tổng đài (24/7) gọi: 1900 6198
Luật sư tư vấn pháp luật qua tổng đài (24/7) gọi: 1900 6198

Căn cứ pháp lý về dữ liệu điện tử

“Điều 99. Dữ liệu điện tử

1. Dữ liệu điện tử là ký hiệu, chữ viết, chữ sổ, hình ảnh, âm thanh hoặc dạng tương tự được tạo ra, lưu trữ, truyền đi hoặc nhận được bởi phương tiện điện tử.

2. Dữ liệu điện tử được thu thập từ phương tiện điện tử, mạng máy tính, mạng viễn thông, trên đường truyền và các nguồn điện tử khác.

3. Giá trị chứng cứ của dữ liệu điện tử được xác định căn cứ vào cách thức khởi tạo, lưu trữ hoặc truyền gửi dữ liệu điện tử; cách thức bảo đảm và duy trì tính toàn vẹn của dữ liệu điện tử; cách thức xác định người khởi tạo và các yếu tố phù hợp khác.”

Khái niệm và các loại dữ liệu điện tử

Nhằm đáp ứng yêu cầu đấu tranh chống tội phạm, đặc biệt là các tội phạm sử dụng công nghệ cao, BLTTHS năm 2015 bổ sung mới và quy định cụ thể về dữ liệu điện tử với tính cách là một loại nguồn chứng cứ như: khái niệm về dữ liệu điện tử; các nguồn chứa dữ liệu điện tử; yêu cầu về giá trị chứng cứ của dữ liệu điện tử.

Về bản chất, dữ liệu điện tử là ký hiệu, chữ viết, chữ số, hình ảnh, âm thanh hoặc dạng tương tự được tạo ra, lưu trữ, truyền đi hoặc nhận được bởi phương tiện điện tử, có thể phục hồi, phân tích, tìm được dữ liệu, kể cả đã bị xóa, bị ghi đè, dưới dạng ẩn, đã mã hốa và làm cho có thể đọc được, nhìn thấy được, ghi lại, sử dụng làm chứng cứ. Dữ liệu điện tử sử dụng làm chứng cứ thường gồm gồm 2 loại:

- Dữ liệu điện từ do máy tính tự động tạo ra như: “cookies”, “URL”, E-mail logs, webserver logs, firewallserver logs, IP, thông tin truy cập, website, mã độc..., chứng minh về nguồn gốc truy cập, tấn công vào website, cơ sở dữ liệu, thư điện tử, tài khoản, dấu vết hoạt động của thủ phạm (cài trojan, keylogger, sniffer nghe lén, lấy cắp dữ liệu...).

- Dữ liệu điện tử do người sừ dụng tạo ra như văn bản, bảng biểu, hình ảnh, thông tin... Trong file dữ liệu còn có thể tìm được siêu dữ liệu (thông tin về cá nhân, tổ chức liên quan đến dữ liệu metadata), có giá trị chứng minh về người và máy tính đã tạo ra dữ liệu, nguồn gốc dữ liệu.

Dữ liệu điện từ có thể được thu trên đường truyền, trên mạng (lưu trong server của nhà cung cấp dịch vụ, website, cơ sở dữ liệu...), trong máy tính, thiết bị kỹ thuật số của đối tượng... Để thu thập, phục hồi, giải mã, phân tích và giám định những dấu vết điện tử (tồn tại dưới dạng tín hiệu điện tử bit-byte trên băng từ, đĩa từ, chip điện tử), đã lưu, bị xóa, bị ghi đè, tồn tại dưới dạng ẩn, đã mã hóa, cần có chuyên gia sử dụng thiết bị kỹ thuật, công nghệ và phần mềm phù hợp thực hiện chuyển dữ liệu (một cách khách quan) sang dạng có thể đọc được (in thành tài liệu), nghe thấy được (ghi âm), nhìn thấy được (hình ảnh, video) để làm chứng cứ.

Giá trị chứng cứ của dữ liệu điện tử

Việc công nhận liệu điện tử có giá trị làm chứng cứ trong hoạt động điều tra, truy tố và xét xử không có nghĩa là cơ quan tiến hành tố tụng sẽ phải tin tưởng hoàn toàn vào nguồn chứng này. Để xem xét dữ liệu điện tử có giá trị làm chứng cứ như thế nào, cơ quan tiến hành tố tụng sẽ phải xem xét một loạt yếu tố khác nhau. Giá trị chứng cứ của dữ liệu điện tử được xác định căn cứ vào cách thức khởi tạo, lưu trữ hoặc truyền gửi dữ liệu điện tử; cách thức bảo đảm và duy trì tính toàn vẹn của dữ liệu điện tử; cách thức xác định người khởi tạo và các yếu tố phù hợp khác. Chẳng hạn, nếu dữ liệu điện tử không sử dụng biện pháp nào giúp phát hiện những thay đổi phát sinh sau khi được khởi tạo thì giá trị chứng minh, độ tin cậy dữ liệu điện tử đó rất thấp. Nếu dữ liệu điện tử có gắn chữ ký điện tử của các bên giúp phát hiện những thay đổi đó thì giá trị chứng minh, độ tin cậy sẽ cao hơn. Ngoài ra, cũng như các loại nguồn chứng cứ truyền thông khác, giá trị của chứng cứ là dữ liệu điện tử đến đâu là do cơ quan tiến hành tố tụng đánh giá, quyết định trong từng trường hợp cụ thể.

Dữ liệu điện tử chỉ có giá trị chứng minh nếu thỏa mãn các thuộc tính: Tính xác thực, tính hợp pháp và liên quan

-Tính xác thực: Dữ liệu điện tử là có thật, có thể nghe, đọc hoặc nhìn được, đã được tìm thấy trên máy tính, điện thoại di động, trên mạng internet…

-Tính hợp pháp: Dữ liệu điện tử được thu thập, bảo quản, kiểm tra, đánh giá theo đúng trình tự, thủ tục do BLTTHS quy định (theo quy định tại các điều 107, 192, 196, 199 BLTTHS).

-Tính liên quan: Dữ liệu điện tử phải có ý nghĩa xác định có hay không có tội phạm và những tình tiết khác có ý nghĩa liên quan đến việc giải quyết đúng đắn vụ án.

Thủ tục thu thập, lưu giữ dữ liệu điện tử

Phương tiện điện tử chứa đựng dữ liệu điện tử nên phải được thu giữ kịp thời, đầy đủ, mô tả đúng thực trạng và niêm phong ngay sau khi thu giữ. Việc niêm phong, mở niêm phong được tiến hành theo quy định của pháp luật. Trường hợp không thể thu giữ phương tiện lưu trữ dữ liệu điện tử thì cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng phải tiến hành sao lưu dữ liệu điện tử đó vào phương tiện điện tử và bảo quản như đối với vật chứng, đồng thời yêu cầu cơ quan, tổ chức, cá nhân liên quan lưu trữ, bảo quản nguyên vẹn dữ liệu điện tử mà cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng đã sao lưu và cơ quan, tổ chức, cá nhân này phải chịu trách nhiệm trước pháp luật.

Khi thu thập, chặn thu, sao lưu dữ liệu điện tử từ phương tiện điện tử, mạng máy tính, mạng viễn thông hoặc trên đường truyền, cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng phải tiến hành lập biên bản và đưa vào hồ sơ vụ án. Trong trường hợp cần thiết, cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng có thể trưng cầu giám định dữ liệu điện tử. Khi nhận được quyết định trưng cầu giám định của cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng thì cá nhân, tổ chức có trách nhiệm thực hiện phục hồi, tìm kiếm, giám định dữ liệu điện tử. Việc phục hồi, tìm kiếm, giám định dữ liệu điện tử chỉ được thực hiện trên bản sao; kết quả phục hồi, tìm kiếm, giám định phải chuyển sang dạng có thể đọc, nghe hoặc nhìn được. Phương tiện điện tử, dữ liệu điện tử được bảo quản như vật chứng theo quy định của BLTTHS. Khi xuất trình chứng cứ là dữ liệu điện tử phải kèm theo phương tiện lưu trữ dữ liệu hoặc bản sao dữ liệu điện tử.

Khuyến nghị:

  1. Bài viết được luật sư, chuyên gia của Công ty Luật TNHH Everest thực hiện nhằm mục đích nghiên cứu khoa học hoặc phổ biến kiến thức pháp luật, hoàn toàn không nhằm mục đích thương mại.
  2. Bài viết có sử dụng những kiến thức hoặc ý kiến của các chuyên gia được trích dẫn từ nguồn đáng tin cậy. Tại thời điểm trích dẫn những nội dung này, chúng tôi đồng ý với quan điểm của tác giả. Tuy nhiên, quý Vị đây chỉ nên coi đây là những thông tin tham khảo, bởi nó có thể chỉ là quan điểm cá nhân người viết.
  3. Trường hợp cần giải đáp thắc mắc về vấn đề có liên quan, hoặc cần ý kiến pháp lý cho vụ việc cụ thể, Quý vị vui lòng liên hệ với chuyên gia, luật sư của Công ty Luật TNHH Everest qua Tổng đài tư vấn pháp luật 19006198, E-mail: [email protected], [email protected].