Bộ luật tố tụng hình sự có hiệu lực đối với mọi hoạt động tố tụng hình sự trên lãnh thổ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Theo từ điển chuyên ngành pháp luật, hiệu lực của văn bản pháp luật bao gồm hiệu lực về không gian và thời gian, là tính bắt buộc thi hành, giá trị pháp lý của văn bản đó, thể hiện phạm vi tác động hoặc phạm vi điều chỉnh của vân bản về thời gian, không gian và đối tượng áp dụng.
‘‘1. Bộ luật tố tụng hình sự có hiệu lực đối với mọi hoạt động tố tụng hình sự trên lãnh thổ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. 2. Hoạt động tố tụng hình sự đối với người nước ngoài phạm tội trên lãnh thổ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam được tiến hành theo quy định của điều ước quốc tế mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên hoặc theo nguyên tắc có đi có lại. Trường hợp người nước ngoài thuộc đối tượng được hưởng quyền miễn trừ ngoại giao hoặc lãnh sự theo pháp luật Việt Nam, điều ước quốc tế mà Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên hoặc tập quán quốc tế thì được giải quyết theo quy định của điều ước quốc tế hoặc tập quán quốc tế đó; trường hợp điều ước quốc tế đó không quy định hoặc không có tập quán quốc tế thì được giải quyết bằng con đường ngoại giao".
Hiệu lực của văn bản pháp luật là gì?
Theo từ điển chuyên ngành pháp luật, hiệu lực của văn bản pháp luật bao gồm hiệu lực về không gian và thời gian, là tính bắt buộc thi hành, giá trị pháp lý của văn bản đó, thể hiện phạm vi tác động hoặc phạm vi điều chỉnh của vân bản về thời gian, không gian và đối tượng áp dụng.
Hiệu lực về không gian: theo khoản 1 Điều 3 của Bộ luật Tố tụng hình sự quy định hiệu lực áp dụng để giải quyết đối với tất cả các tội phạm xảy ra trên lãnh thổ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Khi có hành vi phạm tội xảy ra trên lãnh thổ Việt Nam, cơ quan tiến hành tố tụng có quyền tiến hành các hoạt động tố tụng, áp dụng các biện pháp ngăn chặn, biện pháp điều tra... để giải quyết vụ án và buộc người phạm tội phải chấp hành hình phạt tương ứng với tính chất, mức độ tội của họ.
Hiệu lực về không gian của Bộ luật tố tụng hình sự
Đối với tội phạm xảy ra trên lãnh thổ Việt Nam do người nước ngoài thực hiện thì cần phân biệt các trường hợp sau:
Đối với các tội phạm xảy ra trên lãnh thổ Việt Nam do người nước ngoài thực hiện mà người đó là công dân của các nước là thành viên của Điều ước quốc tế mà Việt Nam đã ký kết hoặc gia nhập thì được tiến hành theo các quy định của điều ước quốc tế đó. Đây là trường hợp người nước ngoài phạm tội trên lãnh thổ Việt Nam hoặc người Việt Nam phạm tội ngoài lãnh thổ Việt Nam, theo quy định của Luật hình sự họ phải chịu trách nhiệm theo Luật hình sự Việt Nam và tùy theo tình hình cụ thể có thể áp dụng đầy đủ hoặc một phần các quy định của Luật tố tụng hình sự đối với tội phạm.
Trong trường hợp việc điều tra, truy tố, xét xử vụ án hình sự không thuộc thẩm quyền của các cơ quan tiến hành tố tụng của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, nhưng do Hiệp định tương trợ tư pháp mà cơ quan tiến hành tố tụng nước ta được ký Hiệp định ủy thác tiến hành những hoạt động tố tụng nhất định (như thu thập chứng cứ, hỏi cung bị can, lấy lời khai của người làm chứng...), thì việc tiến hành các hoạt động tố tụng đó cũng phải được tiến hành theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự Việt Nam.
Đối với người nước ngoài phạm tội trên lãnh thổ Việt Nam thuộc các đối tượng được hưởng các đặc quyền ngoại giao hoặc miễn trừ về lãnh sự theo pháp luật Việt Nam ký kết hay công nhận hoặc tập quán quốc tế thì được giải quyết theo quy định của điều ước quốc tế hoặc tập quán quốc tế đó; trường hợp điều ước quốc tế đó không quy định hoặc không có tập quán quốc tế thì được giải quyết bằng con đường ngoại giao.
Hiệu lực về thời giancủa Bộ luật tố tụng hình sự
Trên thực tế vấn đề hiệu lực về thời gian của các văn bản pháp luật có các trường hợp sau:
(1) có hiệu lực kể từ ngày được công bố;
(2) khi được công bố vẫn chưa có hiệu lực thi hành, thời điểm bắt đầu có hiệu lực pháp luật được quy định trong văn bản riêng biệt của Quốc hội.
Và nhìn vào Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 thì mặc dù được Quốc hội khóa XIII kỳ họp thứ X thông qua ngày 27 tháng 11 năm 2015 và Chủ tịch nước công bố ngày 09/12/2015 nhưng có hiệu lực pháp luật từ ngày 01/07/2016 và đồng thời khi Bộ luật năm 2015 có hiệu lực thì Bộ luật năm 2003 hết hiệu lực.
Khuyến nghị:
- Bài viết nêu trên được luật sư, chuyên gia của Công ty Luật TNHH Everest thực hiện nhằm mục đích nghiên cứu khoa học hoặc phổ biến kiến thức pháp luật, hoàn toàn không nhằm mục đích thương mại.
- Bài viết có sử dụng những kiến thức hoặc ý kiến của các chuyên gia được trích dẫn từ nguồn đáng tin cậy. Tại thời điểm trích dẫn những nội dung này, chúng tôi đồng ý với quan điểm của tác giả. Tuy nhiên, quý vị chỉ nên coi đây là những thông tin tham khảo, bởi nó có thể chỉ là quan điểm cá nhân người viết.
- Trường hợp cần giải đáp thắc mắc về vấn đề có liên quan, hoặc cần ý kiến pháp lý cho vụ việc cụ thể, Quý vị vui lòng liên hệ với chuyên gia, luật sư của Công ty Luật TNHH Everest qua Tổng đài tư vấn pháp luật 1900 6198, E-mail: [email protected].
Bình luận