Pháp luật quy định thế nào về việc đình chỉ điều tra?

Việc đình chỉ điều tra được quy định tại điều 230 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 (có hiệu lực pháp lý từ ngày 01/01/2018).

Đình chỉ điều tra là chấm dứt việc điều tra đối với vụ án hoặc đối với một hoặc một số bị can của vụ án đó. Quyết định đình chỉ điều tra sẽ kết thúc việc tiến hành tố tụng đối với bị can hoặc đối với vụ án bị đình chỉ.

Luật sư tư vấn pháp luật hình sự - Tổng đài tư vấn (24/7): 1900 6198
Luật sư tư vấn pháp luật hình sự - Tổng đài tư vấn (24/7): 1900 6198

Căn cứ pháp lý về việc đình chỉ điều tra được quy định tại điều 230 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 như sau:

“1. Cơ quan điều tra ra quyết định đình chỉ điều tra khi thuộc một trong các trường hợp:

a) Có một trong các căn cứ quy định tại khoản 2 Điều 155 và Điều 157 của Bộ luật này hoặc có căn cứ quy định tại Điều 16 hoặc Điều 29 hoặc khoản 2 Điều 91 của Bộ luật hình sự;

b) Đã hết thời hạn điều tra vụ án mà không chứng minh được bị can đã thực hiện tội phạm.

2. Quyết định đình chỉ điều tra ghi rõ thời gian, địa điểm ra quyết định, lý do và căn cứ đình chì điều tra, việc hủy bỏ biện pháp ngăn chặn, biện pháp cưỡng chế, trả lại tài liệu, đồ vật đã tạm giữ (nếu có), việc xử lý vật chứng và những vấn đề khác có liên quan.

Trường hợp vụ án có nhiều bị can mà căn cứ để đình chi điều tra không liên quan đến tất cả bị can thì có thể đình chỉ điều tra đối với từng bị can.

3. Trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được quyết định đình chỉ điều tra kèm theo hồ sơ vụ án của Cơ quan điều tra, nếu thấy quyết định đình chỉ điều tra có căn cứ thì Viện kiểm sát phải trả lại hồ sơ vụ án cho Cơ quan điều tra để giải quyết theo thẩm quyền; nếu thấy quyết định đình chỉ điều tra không có căn cứ thì hủy bỏ quyết định đình chỉ điều tra và yêu cầu Cơ quan điều tra phục hồi điều tra, nếu thấy đủ căn cứ để truy tố thì hủy bỏ quyết định đình chỉ điều tra và ra quyết định truy tố theo thời hạn, trình tự, thủ tục quy định tại Bộ luật này.”

Các trường hợp ra quyết định đình chỉ điều tra

Có một trong các căn cứ quy định tại khoản 2 Điều 155 và Điều 157 của Bộ luật này hoặc có căn cứ quy định tại Điều 16 hoặc Điều 29 hoặc khoản 2 Điều 91 của Bộ luật hình sự;

Đây là trường hợp vụ án khởi tố theo yêu cầu của bị hại. Sau khi bị hại có yêu cầu khởi tố, Cơ quan điều tra đã tiến hành khởi tố vụ án hình sự, khởi tố bị can và đang tiến hành các hoạt động điều tra, chứng minh vụ án. Khi đang trong giai đoạn điều tra, bị hại tự nguyện rút yêu cầu khởi tố theo khoản 2 điều 155 Bộ luật Tố tụng hình sự thì cơ quan điều tra phải ra quyết định đình chỉ điều tra.

Tiếp theo, khi có một trong các căn cứ không khởi tố vụ án hình sự theo quy định tại điều 157 Bộ luật Tố tụng hình sự thì vụ án cũng phải bị đình chỉ. Ngoài ra, điều luật cũng quy định vụ án phải bị đình chỉ điều tra trong trường hợp tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội theo điều 16 Bộ luật hình sự, người phạm tội được miễn trách nhiệm hình sự (theo điều 29 và khoản 2 điều 91 Bộ luật hình sự).

Đã hết thời hạn điều tra vụ án mà không chứng minh được bị can đã thực hiện tội phạm. Đây là trường hợp Cơ quan điều tra đã tiến hành thu thập chứng cứ nhằm chứng minh tội phạm và người phạm tội, giải quyết vụ án hình sự. Tuy nhiên, các chứng cứ thu thập được chưa đủ để chứng minh bị can đã thực hiện tội phạm. Quy định này phù hợp với nguyên tắc suy đoán vô tội - nguyên tắc mới trong Bộ luật Tổ tụng hình sự năm 2015 “...Khi không đủ hoặc không thể làm sáng tỏ căn cứ để buộc tội, kết tội theo trình tự, thủ tục do Bộ luật này quy định thì cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng phải kết luận người bị buộc tội không có tội”.

Luật sư tư vấn pháp luật hình sự - Tổng đài tư vấn (24/7): 1900 6198
Luật sư tư vấn pháp luật hình sự - Tổng đài tư vấn (24/7): 1900 6198

Những quan hệ được khôi phục khi có quyết định đình chỉ điều tra

Quyết định đình chỉ điều tra ghi rõ thời gian, địa điểm ra quyết định, lý do và căn cứ đình chỉ điều tra, việc hủy bỏ biện pháp ngăn chặn, biện pháp cưỡng chế, trả lại tài liệu, đồ vật đã tạm giữ (nếu có), việc xử lý vật chứng và những vấn đề khác có liên quan.

Quyết định đình chỉ điều tra sẽ kết thúc việc giải quyết vụ án (trừ trường hợp quyết định này sau đó bị hủy bỏ bởi Viện kiểm sát). Do đó, các biện pháp ngăn chặn như tạm giữ, tạm giam, cấm đi khỏi nơi cứ trú, các biện pháp cưỡng chế cũng cần phải chấm dứt (bị hủy bỏ) kịp thời nhằm khôi phục lại quyền, lợi ích hợp pháp của bị can.

Trường hợp vụ án có nhiều bị can mà căn cứ để đình chỉ điều tra không liên quan đến tất cả bị can thì có thể đình chỉ điều tra đối với từng bị can.

Ví dụ: A, B là bị can trong vụ án trộm cắp tài sàn. Khi đang tiến hành điều tra, A chết. Cơ quan điều tra ra quyết định đình chỉ điều tra đối với A. Việc điều tra vẫn tiếp tục tiến hành đối với B.

Khuyến nghị của Công ty Luật TNHH Everest:

1. Bài viết được luật sư, chuyên gia của Công ty Luật TNHH Everest thực hiện nhằm mục đích nghiên cứu khoa học hoặc phổ biến kiến thức pháp luật, hoàn toàn không nhằm mục đích thương mại.

2. Bài viết có sử dụng những kiến thức hoặc ý kiến của các chuyên gia được trích dẫn từ nguồn đáng tin cậy. Tại thời điểm trích dẫn những nội dung này, chúng tôi đồng ý với quan điểm của tác giả. Tuy nhiên, quý Vị đây chỉ nên coi đây là những thông tin tham khảo, bởi nó có thể chỉ là quan điểm cá nhân người viết.

3. Trường hợp cần giải đáp thắc mắc về vấn đề có liên quan, hoặc cần ý kiến pháp lý cho vụ việc cụ thể, Quý vị vui lòng liên hệ với chuyên gia, luật sư của Công ty Luật TNHH Everest qua Tổng đài tư vấn pháp luật19006198, E-mail: [email protected].