So sánh quy định về độ tuổi chịu trách nhiệm hình sự giữa BLHS 1999 sửa đổi, bổ sung năm 2009 và BLHS năm 2015

Đối với Người phạm tội từ đủ 16 tuổi trở lên, BLHS 1999 chỉ quy định người từ đủ 16 tuổi trở lên phải chịu trách nhiệm hình sự về mọi tội phạm mà không có quy định loại trừ một số tội phạm mà đối tượng này không phải chịu trách nhiệm hình sự.

Điều 12 Bộ luật hình sự năm 1999 sửa đổi, bổ sung năm 2009 quy định về độ tuổi chịu TNHS như sau: “1. Người từ đủ 16 tuổi trở lên phải chịu trách nhiệm hình sự về mọi tội phạm. 2. Người từ đủ 14 tuổi trở lên, nhưng chưa đủ 16 tuổi phải chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm rất nghiêm trọng do cố ý hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng”.

Điều 12 Bộ luật Hình sự năm 2015 quy định về độ tuổi chịu trách nhiệm hình sự như sau: “1. Người từ đủ 16 tuổi trở lên phải chịu trách nhiệm hình sự về mọi tội phạm, trừ những tội phạm mà Bộ luật này có quy định khác. Người từ đủ 14 tuổi trở lên, nhưng chưa đủ 16 tuổi chỉ phải chịu trách nhiệm hình sự về tội giết người, tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác, tội hiếp dâm, tội hiếp dâm người dưới 16 tuổi, tội cưỡng dâm người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi, tội cướp tài sản, tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản; về tội phạm rất nghiêm trọng, tội phạm đặc biệt nghiêm trọng quy định tại một trong các điều sau đây: a) Điều 143 (tội cưỡng dâm); Điều 150 (tội mua bán người); Điều 151 (tội mua bán người dưới 16 tuổi); b) Điều 170 (tội cưỡng đoạt tài sản); Điều 171 (tội cướp giật tài sản); Điều 173 (tội trộm cắp tài sản); Điều 178 (tội hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản); c) Điều 248 (tội sản xuất trái phép chất ma túy); Điều 249 (tội tàng trữ trái phép chất ma túy); Điều 250 (tội vận chuyển trái phép chất ma túy); Điều 251 (tội mua bán trái phép chất ma túy); Điều 252 (tội chiếm đoạt chất ma túy); d) Điều 265 (tội tổ chức đua xe trái phép); Điều 266 (tội đua xe trái phép); đ) Điều 285 (tội sản xuất, mua bán, trao đổi hoặc tặng cho công cụ, thiết bị, phần mềm để sử dụng vào mục đích trái pháp luật); Điều 286 (tội phát tán chương trình tin học gây hại cho hoạt động của mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử); Điều 287 (tội cản trở hoặc gây rối loạn hoạt động của mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử); Điều 289 (tội xâm nhập trái phép vào mạng máy tính, mạng viễn thông hoặc phương tiện điện tử của người khác); Điều 290 (tội sử dụng mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản); e) Điều 299 (tội khủng bố); Điều 303 (tội phá hủy công trình, cơ sở, phương tiện quan trọng về an ninh quốc gia); Điều 304 (tội chế tạo, tàng trữ, vận chuyển, sử dụng, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt vũ khí quân dụng, phương tiện kỹ thuật quân sự)”.

>>>Luật sư tư vấn pháp luật qua tổng đài (24/7) gọi: 1900 6198

Chúng tôi xin đưa ra một vài nhận xét như sau:

- Đối với Người phạm tội từ đủ 16 tuổi trở lên, BLHS 1999 chỉ quy định người từ đủ 16 tuổi trở lên phải chịu trách nhiệm hình sự về mọi tội phạm mà không có quy định loại trừ một số tội phạm mà đối tượng này không phải chịu trách nhiệm hình sự là một sai sót giữa quy định của Phần chung và Phần tội phạm của BLHS. Phần các tội phạm của BLHS có một số tội mà người chưa thành niên (dưới 18 tuổi) không phải chịu trách nhiệm hình sự.

Ví dụ: Tội giao cấu với người chưa thành niên; tội dâm ô với người chưa thành niên; tội dụ dỗ, ép buộc hoặc chứa chấp người chưa thành niên phạm pháp là tội mà người chưa thành niên không phải chịu trách nhiệm hình sự.

Để khắc phục sai sót này, Khoản 1 của Điều 12 Bộ luật hình sự 2015 đã bổ sung “trừ những tội phạm mà Bộ luật này có quy định khác”. Chúng tôi cho rằng, việc quy định bổ sung nêu trên là phù hợp theo tinh thần của pháp luật.

Đới với người từ đủ 14 tuổi trở lên nhưng chưa đủ 16 tuổi chỉ phải chịu trách nhiệm hình sự về các tội phạm nghiêm trọng, tội phạm đặc biệt nghiêm trọng quy định cụ thể tại các điểm từ a đến e khoản 2 Điều 12 BLHS. Tuy nhiên, họ lại phải chịu trách nhiệm hình sự về tội giết người, cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác, tội hiếp dâm, tội hiếp dâm người dưới 16 tuổi, tội cưỡng dâm người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi, tội cướp tài sản, tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản cho dù đó là tội ít nghiêm trọng hoặc nghiêm trọng. Quy định này lại mở rộng phạm vi xử lý đối với người từ đủ 14 tuổi trở lên đến dưới 16 tuổi theo quy định tại Bộ luật hình sự năm 1999.


Quý vị tìm hiểu thêm thông tin chi tiết hoặc liên hệ với Luật sư, Luật gia của Công ty Luật TNHH Everest để yêu cầu cung cấp dịch vụ:
  1. Địa chỉ: Tầng 19 Tòa nhà Thăng Long Tower, 98 Ngụy Như Kom Tum, Thanh Xuân, Hà Nội
  2. Văn phòng giao dịch: Tầng 2, Toà nhà Ngọc Khánh, 37 Nguyễn Sơn, Long Biên, Hà Nội
  3. Điện thoại: (04) 66.527.527 - Tổng đài tư vấn pháp luật: 1900-6218
  4. E-mail:[email protected], hoặc E-mail: [email protected].