Tính chất của xét xử phúc thẩm trong Tố tụng hình sự

Tính chất của xét xử phúc thẩm được quy định tại Điều 330 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015

Trong t tụng hình sự xét xử phúc thẩm có một vai trò đặc biệt quan trọng, trước hết đây là hoạt động của tòa án cấp trên trực tiếp của tòa án đã xét xử sơ thẩm nhằm giải quyết lại vụ án khi có kháng cáo hoặc kháng nghị đổi với bàn án, quyết định sơ thẩm và theo như phân cấp thẩm phán thì trình độ và kinh nghiệm của thẩm phán tòa án cấp dưới sẽ thấp hơn trình độ và kinh nghiệm của tòa án cấp trên do đó các thẩm phán cp trên có thể kịp thời phát hiện những sai lầm hay thiếu sót trong việc đánh giá chứng cứ hoặc áp dụng pháp luật.

Luật sư tư vấn pháp luật qua tổng đài (24/7) gọi: 1900 6198
Luật sư tư vấn pháp luật qua tổng đài (24/7) gọi: 1900 6198

Căn cứ pháp lý về tính chất của xét xử phúc thẩm

Điều 330. Tính cht của xét xử phúc thm

1. Xét xử phúc thẩm là việc Tòa án cấp trên trực tiếp xét xử lại vụ án hoặc xét lại quyết định Sơ thm mà bản án, quyết định sơ thẩm đổi với vụ án đó chưa có hiệu lực pháp luật bị kháng cáo hoặc kháng nghị.

2. Quyết định sơ thẩm bị kháng cáo, kháng nghị là quyết định tạm đình ch, quyết định đình chỉ vụ án, quyết định tạm đình chỉ vụ án đi với bị can, bị cáo, quyết định đình chvụ án đi với bị can, bị cáo và quyết định khác của Tòa án cấp sơ thẩm theo quy định của Bộ luật này.

Vai trò của xét xử phúc thẩm

Trong t tụng hình sự xét xử phúc thẩm có một vai trò đặc biệt quan trọng, trước hết đây là hoạt động của tòa án cấp trên trực tiếp của tòa án đã xét xử sơ thẩm nhằm giải quyết lại vụ án khi có kháng cáo hoặc kháng nghị đổi với bàn án, quyết định sơ thẩm và theo như phân cấp thẩm phán thì trình độ và kinh nghiệm của thẩm phán tòa án cấp dưới sẽ thấp hơn trình độ và kinh nghiệm của tòa án cấp trên do đó các thẩm phán cp trên có thể kịp thời phát hiện những sai lầm hay thiếu sót trong việc đánh giá chứng cứ hoặc áp dụng pháp luật. Điều này cũng cụ thể hóa nguyên tắc hai cấp xét xử xác định tính chất của xét xử phúc thẩm là xét xử lại vụ án hoặc xét lại quyết định sơ thẩm mà bản án hoặc quyết định sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật bị kháng cáo, kháng nghị. Như vậy, Tòa án cp phúc thẩm là cấp xét xử thứ hai.

Tuy nhiên với nhiều điểm ưu việt trong tổ chức tòa án về việc biểu quyết theo s đông hay sự tham gia hội thẩm nhân dân vào phiên tòa sơ thẩm đã thể hiện tính dân chủ khi xét xử, do đó không phải lúc nào một bản án sơ thẩm cũng có sai sót và phải phúc thm, hu như bản án mang tính nghiêm minh, đúng pháp luật, đáp ứng nguyện vọng của người dân. Trong thực tế sau phiên tòa sơ thẩm có thể phát sinh một số tình tiết mới có giá trị làm thay đi nội dung trong bản án hay quyết định.

Ví dụ người bị hại có đơn đ nghị giảm hình phạt, giảm mức bồi thường cho bị cáo hoặc giảm mức bồi thường cho nguyên đơn dân sự khi nhận thấy mức phạt mà Tòa áp dụng với bị cáo là quá nặng. Trong những trường hợp này nếu như không có quy định một trình tự xem xét lại bản án, quyết định tại phiên tòa sơ tham thì sẽ không phù hợp với nguyên tắc nhân đạo, nguyên tắc công bng và nghiêm minh. Tại phiên tòa phúc thm hội đồng xét xử có th thay đổi nội dung bản án, quyết định sơ thẩm theo hướng tăng nặng hoặc giảm nhẹ, có thể hủy bản án sơ thẩm, đình chỉ vụ án. Có thể định nghĩa xét xử phúc thẩm vụ án hình sự là việc tòa án cp trên trực tiếp của tòa án đã xử sơ thẩm xét xư lại bản án hoặc quyết định của cấp sơ thẩm khi bản án, quyết định đó chưa có hiệu lực pháp luật nhưng đã bị kháng cáo, kháng nghị hợp pháp trong thời gian luật định.

Thẩm quyền của tòa án các cấp

Theo Luật tổ chức tòa án nhân dân năm 2014 quy định về thẩm quyền của tòa án các cp thì:Các Tòa phúc thẩm thuộc Tòa án nhân dân tối cao xét x phúc thẩm những vụ án do các Tòa án nhân dân cp tỉnh đã xét xử sơ thẩm mà bản án hoặc quyết định chưa có hiệu lực pháp luật bị kháng cáo, kháng nghị; Tòa án quân sự trung ương xét xử phúc thm những vụ án do các Tòa án quân sự cấp quân khu đã xét xử sơ thẩm mà bản án hoặc quyết định chưa có hiệu lực pháp luật bị kháng cáo, kháng nghị; Tòa án nhân dân cấp tỉnh xét xử phúc thẩm những vụ án do các Tòa án nhân dân cấp quận, huyện đã xét xử sơ thẩm mà bn án hoặc quyết định chưa có hiệu lực pháp luật bị kháng cáo, kháng nghị; Tòa án quân sự cấp quân khu xét xử phúc thẩm những vụ án do các Tòa án quân sự cp khu vực đã xét xử sơ thẩm mà bản án hoặc quyết định chưa có hiệu lực pháp luật bị kháng cáo, kháng nghị.

Sự khác nhau cơ bản giữa phúc thẩm và giám đốc thẩm, tái thẩm

Tòa phúc thẩm là cấp xét xử thử hai có nhiệm vụ xét xử lại vụ án hoặc xét lại quyết định sơ thm mà bản án hoặc quyết định sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật bị kháng cáo, kháng nghị. Còn giám đốc thẩm, tái thẩm không phải là cấp xét xử mà chỉ là một thủ tục đặc biệt để xét lại các bản án hoặc quyết định đã có hiệu lực pháp luật bị kháng nghị.

Đi tượng xem xét của Tòa án cấp phúc thẩm chỉ có thể là những vụ án mà bản án hoặc quyết định sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật bị kháng cáo, kháng nghị. Còn đi tượng xem xét của giám đốc thẩm, tái thẩm là những vụ án mà bản án hoặc quyết định đã có hiệu lực pháp luật không ch của Tòa án cấp sơ thẩm, mà cả của Tòa án cấp phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm bị kháng nghị.

Trong thủ tục phúc thẩm, ngoài Viện kiểm sát (cấp sơ thẩm và phúc thẩm) có quyền kháng nghị, thì bị cáo và các đương sự (người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyn lợi, nghĩa vụ liên quan và người đại diện ca họ) cũng có quyền kháng cáo. Trong thủ tục giám đc thẩm, tái thẩm, thì chỉ có những người có thẩm quyền (Chánh án Tòa án nhân dân cấp tỉnh trở lên hoặc Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnh trở lên) mới có quyền kháng nghị.

Phiên tòa phúc thẩm được tiến hành như phiên tòa sơ thẩm, tức là việc xét x phúc thẩm vụ án được tiến hành công khai với sự tham gia của những người có liên quan đến kháng cáo, kháng nghị và những người tham gia tố tụng khác (người làm chứng, phiên dịch, người giám định...), trừ trường hợp cn giữ bí mật nhà nước, thuần phong mỹ tục của dân tộc (xem bình luận Điu 18). Còn phiên tòa giám đốc thẩm hoặc tái thẩm không phải là phiên tòa công khai và việc triệu tập người tham gia tố tụng không phải là bắt buộc.

Ngoài các quyền bác kháng cáo, kháng nghị và giữ nguyên bản án; hủy bản án để điều tra lại hoặc xét xử lại; hủy bản án và đình ch vụ án, Tòa án cp phúc thm còn có quyền sửa bản án, quyết định của Tòa án cấp dưới. Còn đi với cấp giám đốc thẩm hoặc tái thẩm thì không có quyền sửa bản án hoặc quyết định của Tòa án cấp dưới.

Điểm mới trong Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015

Ngoài ra một điểm mới của Bộ luật T tụng hình sự năm 2015 so với Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003 là đã liệt kê cụ thể những quyết định nào là bị kháng cáo, kháng nghi: Quyết định sơ thm bị kháng cáo, kháng nghị là quyết định tạm đình chỉ, quyết định đình chỉ vụ án, quyết định tạm đình chỉ vụ án đối với bị can, bị cáo, quyết định đình chỉ vụ án đối với bị can, bị cáo và quyết định khác của Tòa án cấp sơ thm theo quy định của Bộ luật này.

Khuyến nghị của Công ty Luật TNHH Everest:

  1. Bài viết được luật sư, chuyên gia của Công ty Luật TNHH Everest thực hiện nhằm mục đích nghiên cứu khoa học hoặc phổ biến kiến thức pháp luật, hoàn toàn không nhằm mục đích thương mại.
  2. Bài viết có sử dụng những kiến thức hoặc ý kiến của các chuyên gia được trích dẫn từ nguồn đáng tin cậy. Tại thời điểm trích dẫn những nội dung này, chúng tôi đồng ý với quan điểm của tác giả. Tuy nhiên, quý Vị đây chỉ nên coi đây là những thông tin tham khảo, bởi nó có thể chỉ là quan điểm cá nhân người viết.
  3. Trường hợp cần giải đáp thắc mắc về vấn đề có liên quan, hoặc cần ý kiến pháp lý cho vụ việc cụ thể, Quý vị vui lòng liên hệ với chuyên gia, luật sư của Công ty Luật TNHH Everest qua Tổng đài tư vấn pháp luật 19006198, E-mail: [email protected], [email protected].