Biện pháp ngăn chặn bắt người trong Bộ luật tố tụng hình sự 2003

Đối với quy định về việc bắt người, quy định của BLTTHS năm 2003 đã khắc phục được một số khó khăn vướng mắc do quy định trước đây của BLTTHS năm 1988.

Tuy nhiên, trên thực tế vẫn thường xảy ra trường hợp mang lệnh bắt khẩn cấp đi bắt đối tượng nhưng không bắt được ngay vì nhiều nguyên nhân khách quan.Đối với việc bắt bị can, bị cáo để tạm giam cũng gặp trường hợp tương tự. Mặc dù đã có lệnh bắt bị can hoặc bị cáo để tạm giam nhưng khi triển khai bắt thì lại không bắt được vì bị can, bị cáo lẩn trốn, có trường hợp phải sau một thời gian dài mới bắt được.

Trong cả hai trường hợp nêu trên, thời hạn bắt theo lệnh không phải là vô tận mà phải có hạn định. Vậy thời hạn là bao nhiêu ngày cần phải được quy định cụ thể trong BLTTHS. Thời gian trước đây mẫu lệnh bắt bị can để tạm giam ghi rõ thời gian tạm giam tính từ ngày ra lệnh nhưng vì không bắt được ngay đối tượng nên việc ghi thời hạn trong lệnh là không đúng thực tế, do vậy mẫu này đã được sửa đổi ghi thời hạn tạm giam bị can được tính từ khi bắt được bị can. Tuy nhiên, theo chúng tôi cần phải quy định thời hạn nhất định chứ không thể kéo dài đến khi hết thời hạn điều tra, vì vấn đề này còn có liên quan đến chế định truy nã bị can.

Hiện nay, cơ quan điều tra các cấp vẫn đang dùng mẫu lệnh bắt, tạm giam bị can để bắt bị can và trong lệnh này ghi cả thời hạn tạm giam bị can, trong khi đó “bắt bị can, bị cáo để tạm giam” và “tạm giam” là hai biện pháp ngăn chặn độc lập, mặc dù có mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Có ý kiến cho rằng trong trường hợp trên phải dùng 2 mẫu lệnh, đó là “lệnh bắt bị can để tạm giam” và “lệnh tạm giam bị can”, tức là sau khi bắt được bị can mới ra lệnh tạm giam bị can. Chúng tôi thấy ý kiến trên đảm bảo tính khoa học và rõ ràng trong việc áp dụng pháp luật nhưng lại gặp khó khăn là viện kiểm sát không thể phê chuẩn lệnh tạm giam bị can trước khi cơ quan điều tra bắt được bị can vì không biết thời hạn tạm giam tính từ ngày nào; trường hợp bắt được bị can rồi mới ra lệnh tạm giam và xin phê chuẩn của viện kiểm sát thì phải có quy định của luật tố tụng hình sự về thời hạn phê chuẩn lệnh tạm giam và trong thời gian chờ phê chuẩn của viện kiểm sát, bị can chưa thể bị tạm giam thì xử lí như thế nào? Do vậy, việc thực hiện lệnh “kép” như hiện nay là phù hợp thực tiễn, chỉ cần quy định thêm về hiệu lực thời gian của lệnh này.

>>>Luật sư tư vấn pháp luật qua tổng đài (24/7) gọi: 1900 6198
>>>Luật sư tư vấn pháp luật qua tổng đài (24/7) gọi: 1900 6198

Bắt người trong trường hợp khẩn cấp và bắt bị can, bị cáo để tạm giam là các biện pháp ngăn chặn; việc thi hành các lệnh bắt là hoạt động tố tụng nhưng nếu không có biện pháp nghiệp vụ thì nhiều trường hợp gặp khó khăn vì đối tượng bị bắt thường lẩn trốn và tìm cách chống trả những người thi hành lệnh bắt, nhất là những người phạm vào các tội về trật tự xã hội. Thông thường, những người thi hành lệnh bắt phải tìm cách bí mật, bất ngờ tiếp cận đối tượng, không để đối tượng kịp thời chạy trốn, thậm chí có trường hợp phải nhanh chóng sử dụng công cụ hỗ trợ như khoá số 8 để khoá tay, không để đối tượng có thời cơ chống trả, sau đó mới đọc lệnh bắt trước sự chứng kiến của những người có mặt theo luật định. Thế nhưng, trong BLTTHS chỉ quy định chung chung là người thi hành lệnh phải đọc lệnh, giải thích lệnh, quyền và nghĩa vụ của người bị bắt còn đọc lệnh trước hay sau khi bắt thì không quy định rõ. Trên thực tế rất ít trường hợp đối tượng bị bắt chịu đứng im để nghe đọc lệnh bắt mà trước đó cán bộ thi hành lệnh bắt không phải áp dụng các biện pháp chiến thuật, nghiệp vụ.

Điều 80 BLTTHS quy định về bắt bị can, bị cáo để tạm giam nhưng mới chỉ quy định về thẩm quyền ra lệnh, về nội dung lệnh bắt, về trình tự thủ tục bắt và thời điểm bắt; chưa có quy định về điều kiện đối với bị can, bị cáo bị bắt để tạm giam, có nghĩa là chưa quy định về những trường hợp cụ thể nào thì bị can, bị cáo có thể bị bắt để tạm giam. Khi áp dụng biện pháp ngăn chặn này cơ quan tiến hành tố tụng lại phải căn cứ quy định tại khoản 1, khoản 2 Điều 88 BLTTHS quy định về điều kiện đối với bị can, bị cáo có thể bị tạm giam, trong khi đó tại Điều 80 không viện dẫn về điều kiện đối với bị can, bị cáo có thể bị bắt để tạm giam được quy định tại Điều 88 BLTTHS. Như vậy, không có sự liên hệ logic giữa các điều luật mà buộc người thực hiện phải tự nghiên cứu tìm hiểu trong Bộ luật.

Đối với việc bắt người trong trường hợp khẩn cấp, quy định tại Điều 81 BLTTHS về các trường hợp bắt cơ bản là phù hợp với thực tiễn nhưng trong quá trình thực hiện vẫn còn xảy ra oan hoặc sai nên vẫn còn những trường hợp viện kiểm sát không phê chuẩn. Một trong những nguyên nhân xảy ra bắt oan hoặc sai là do không hiểu đúng về quy định của pháp luật và vận dụng không đúng. Chẳng hạn, không hiểu đúng như thế nào là hành vi đang chuẩn bị thực hiện tội phạm, không đảm bảo đầy đủ các điều kiện bắt trong từng trường hợp quy định tại Điều 81 BLTTHS đã ra lệnh bắt. Để khắc phục tình trạng này cần phải có hướng dẫn cụ thể và tăng cường tập huấn nâng cao trình độ pháp luật cho điều tra viên.

Khoản 2 Điều 81 BLTTHS quy định về thẩm quyền ra lệnh bắt người trong trường hợp khẩn cấp, trong đó có người chỉ huy tàu bay, tàu biển khi tàu bay, tàu biển đã rời khỏi sân bay, bến cảng. Khoản 3 Điều 81 BLTTHS quy định về nội dung lệnh bắt và việc thi hành lệnh bắt phải theo đúng quy định tại khoản 2 Điều 80 BLTTHS nhưng ở trên tàu bay, tàu biển thì không thể có đủ thành phần chứng kiến như khoản 2 Điều 80 BLTTHS quy định. Khoản 4 Điều 81 BLTTHS quy định thẩm quyền xét phê chuẩn lệnh bắt khẩn cấp là viện kiểm sát cùng cấp nhưng đối với lệnh bắt khẩn cấp của người chỉ huy tàu bay, tàu biển thì viện kiểm sát cùng cấp là viện kiểm sát nào cũng không được quy định rõ trong luật. Mặc dù liên ngành các cơ quan tiến hành tố tụng ở trung ương hoặc từng ngành đã có hướng dẫn nhưng để đảm bảo tính hợp pháp và thống nhất trong việc thi hành thì phải được quy định cụ thể trong BLTTHS.

Đối với việc bắt người phạm tội quả tang, trước khi có BLTTHS, pháp luật nước ta quy định có bốn trường hợp được bắt, nay BLTTHS quy định người phạm tội quả tang là người đang thực hiện tội phạm hoặc ngay sau khi thực hiện tội phạm thì bị phát hiện hoặc bị đuổi bắt. Về thẩm quyền, bất kì người nào cũng có quyền bắt người phạm tội quả tang và giải ngay đến cơ quan công an, viện kiểm sát hoặc UBND nơi gần nhất. Các cơ quan này phải lập biên bản và giải ngay người bị bắt đến cơ quan điều tra có thẩm quyền.

Quy định như vậy, về cơ bản là phù hợp nhưng trên thực tế có một số khó khăn vướng mắc trong quá trình thực hiện. Cụ thể là:

- Việc xác định một người nào đó đang phạm tội quả tang hay vi phạm hành chính đối với trình độ hiểu biết pháp luật của người dân trong nhiều trường hợp không xác định được, do vậy có trường hợp chỉ là vi phạm hành chính nhưng cũng bị đuổi bắt và giải đến cơ quan công an, viện kiểm sát hoặc UBND. Nếu cán bộ của các cơ quan này mà cũng không nhận thức đúng là phạm tội hay phạm pháp quả tang thì lập biên bản cũng không đúng. Ngược lại, nếu thực tế một người nào đó đã thực hiện hành vi phạm tội thì phải lập biên bản bắt giữ người phạm tội quả tang, sau đó mới áp dụng biện pháp ngăn chặn tạm giữ được, nếu không nhận thức đúng (hoặc thời điểm bắt giữ chưa xác định được là thực hiện hành vi phạm tội hay chỉ là phạm pháp thông thường) mà chỉ lập biên bản phạm pháp quả tang thì sau đó không thể áp dụng biện pháp tạm giữ theo quy định của BLTTHS được, vì tạm giữ chỉ có thể áp dụng đối với người bị bắt trong trường hợp khẩn cấp, phạm tội quả tang, người phạm tội tự thú, đầu thú hoặc đối với người bị bắt theo quyết định truy nã, không được áp dụng đối với người phạm pháp quả tang (vi phạm hành chính).

- Ở thành phố, thị xã, rất ít trường hợp công dân bắt người phạm tội quả tang và giải đến UBND nơi gần nhất mà thường giải đến cơ quan công an nơi gần nhất. Ở chính quyền cấp xã thì công an xã thường nằm trong trụ sở UBND xã cho nên nếu có người giải người phạm tội quả tang đến UBND thì UBND lại giao cho công an xã giải quyết. Mặc dù quy định cho công dân giải người phạm tội quả tang đến cơ quan công an nơi gần nhất để đảm bảo tính nhanh chóng kịp thời nhưng thực tế xảy ra các trường hợp khi giải người đến cơ quan công an, trước hết cán bộ trực ban phải hỏi về địa điểm xảy ra vụ việc. Nếu xảy ra ở địa bàn phường, xã khác thì thường hướng dẫn công dân giải người đó đến cơ quan công an hoặc viện kiểm sát hoặc UBND phường hoặc xã quản lí địa bàn xảy ra vụ việc. Lập luận về vấn đề này cán bộ làm công tác thực tế cho rằng thẩm quyền giải quyết vụ việc phải theo lãnh thổ về địa giới hành chính.

Đối với việc bắt người đang bị truy nã thì ít xảy ra tình trạng như trên, mặc dù luật quy định thẩm quyền bắt và trình tự thủ tục bắt người phạm tội quả tang hoặc đang bị truy nã là như nhau và được quy định chung trong một điều luật.

Nguồn: Tks.edu.vn


Quý vị tìm hiểu thêm thông tin chi tiết hoặc liên hệ với Luật sư, Luật gia của Công ty Luật TNHH Everest để yêu cầu cung cấp dịch vụ:
  1. Địa chỉ: Tầng 19 Tòa nhà Thăng Long Tower, 98 Ngụy Như Kom Tum, Thanh Xuân, Hà Nội
  2. Văn phòng giao dịch: Tầng 2, Toà nhà Ngọc Khánh, 37 Nguyễn Sơn, Long Biên, Hà Nội
  3. Điện thoại: (04) 66.527.527 - Tổng đài tư vấn pháp luật: 1900-6218
  4. E-mail:[email protected], hoặc E-mail: [email protected].