Mua lại mỹ phẩm ăn trộm có vi phạm pháp luật hay không?

Người nào không hứa hẹn trước mà chứa chấp, tiêu thụ tài sản biết rõ là do người khác phạm tội mà có, thì bị phạt tiền từ năm triệu đồng đến năm mươi triệu đồng, phạt cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ sáu tháng đến ba năm.

Hỏi: Tôi là chủ cửa hàng bán mỹ phẩm. Thời gian gần đây tôi phát hiện ra nhân viên của mình đã lấy cắp mỹ phẩm của tôi. Mỗi ngày lấy vài món nên tôi không biết được. Đến khi tôi phát hiện số hàng đã mất thì tổng thiệt hại đã rất lớn lên tới 40 triệu đồng (vì mỹ phẩm tôi bán toàn là hàng auth và nhập từ Nga, Mỹ Pháp). Tôi còn phát hiện nhân viên này đem toàn bộ số đồ lấy được bán lại cho một trong những đầu mối tiêu thụ của tôi. Tôi muốn hỏiliệu cửa hàng mua lại số mỹ phẩm đó có phải chịu trách nhiệm liên quan gì không và nếu có thì tội trạng sẽ là như thế nào? (Kim Ngân - Hà Nội)

Luật sư tư vấn pháp luật qua tổng đài (24/7) gọi: 1900 6198
Luật sư tư vấn pháp luật qua tổng đài (24/7) gọi: 1900 6198

Luật gia Nguyễn Hoài Thu - Tổ tư vấn pháp luật hình sự của Công ty Luật TNHH Everest - trả lời:
- Điều 250 Bộ luật hình sự năm 1999, sửa đổi bổ sung năm 2009 quy định về tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có như sau:"1. Người nào không hứa hẹn trước mà chứa chấp, tiêu thụ tài sản biết rõ là do người khác phạm tội mà có, thì bị phạt tiền từ năm triệu đồng đến năm mươi triệu đồng, phạt cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ sáu tháng đến ba năm. 2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ hai năm đến bảy năm: a) Có tổ chức; b) Có tính chất chuyên nghiệp; c) Tài sản, vật phạm pháp có giá trị lớn; d) Thu lợi bất chính lớn; đ) Tái phạm nguy hiểm. 3. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ năm năm đến mười năm: a) Tài sản, vật phạm pháp có giá trị rất lớn; b) Thu lợi bất chính rất lớn. 4. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ bảy năm đến mười lăm năm: a) Tài sản, vật phạm pháp có giá trị đặc biệt lớn; b) Thu lợi bất chính đặc biệt lớn. 5. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ ba triệu đồng đến ba mươi triệu đồng, tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản hoặc một trong hai hình phạt này”.

Ngoài ra, nếu như phía bên tiêu thụ sản phẩm nói trên đã biết về hành vi trộm cắp và có hứa hẹn trước về việc tiêu thụ tài sản trộm cắp nói trên, thì rất có thể người tiêu thụ (chủ cửa hàng) cũng bị truy tố với tư cách đồng phạm của tội trộm cắp tài sản quy định tại Điều 138 của bộ luật hình sự năm 1999, sửa đổi bổ sung năm 2009 như sau:"1. Người nào trộm cắp tài sản của người khác có giá trị từ hai triệu đồng đến dưới năm mươi triệu đồng hoặc dưới hai triệu đồng nhưng gây hậu quả nghiêm trọng hoặc đã bị xử phạt hành chính về hành vi chiếm đoạt hoặc đã bị kết án về tội chiếm đoạt tài sản, chưa được xoá án tích mà còn vi phạm, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ sáu tháng đến ba năm.2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ hai năm đến bảy năm: a) Có tổ chức; b) Có tính chất chuyên nghiệp; c) Tái phạm nguy hiểm; d) Dùng thủ đoạn xảo quyệt, nguy hiểm; đ) Hành hung để tẩu thoát; e) Chiếm đoạt tài sản có giá trị từ năm mươi triệu đồng đến dưới hai trăm triệu đồng; g) Gây hậu quả nghiêm trọng.3. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ bảy năm đến mười lăm năm: a) Chiếm đoạt tài sản có giá trị từ hai trăm triệu đồng đến dưới năm trăm triệu đồng; b) Gây hậu quả rất nghiêm trọng. 4. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ mười hai năm đến hai mươi năm hoặc tù chung thân: a) Chiếm đoạt tài sản có giá trị từ năm trăm triệu đồng trở lên; b) Gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng.5. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ năm triệu đồng đến năm mươi triệu đồng.”

Như vậy, với trường hợp của anh (chị), nếu như người tiêu thụ số sản phẩm trộm cắp nói trên không biết gì về việc số mỹ phẩm (mua từ nhân viên cũ của anh (chị)) là hàng ăn trộm từ cửa hàng anh (chị) và nhận tiêu thụ một cách ngay tình thì chủ cửa hàng này có thể không bị truy tố trách nhiệm hình sự về tội danh nói trên. Việc chứng minh là có tội hay không có tội là trách nhiệm của cơ quan điều tra.

Khuyến nghị:
  1. Để có ý kiến tư vấn chính xác và cụ thể hơn, Quý vị vui lòng liên hệ với các Luật sư chuyên gia của Công ty Luật TNHH Everest qua Tổng đài tư vấn pháp luật 1900 6198, hoặc E-mail: [email protected].
  2. Nội dung bài tư vấn pháp luật hình sự mà Công ty Luật TNHH Everest cung cấp, Quý vị chỉ nên xem như nguồn tài liệu tham khảo.
  3. Tại thời điểm quý Vị đọc bài viết này, các điều luật chúng tôi viện dẫn có thể đã hết hiệu lực, hoặc đã được sửa đổi, bổ sung; các thông tin trong tình huống là cá biệt. Do đó, chúng tôi không đảm bảo những thông tin này có thể áp dụng cho mọi trường hợp, mọi đối tượng, ở mọi thời điểm.