Người mắc bệnh tâm thần có bị truy cứu trách nhiệm hình sự không?

Người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội trong khi đang mắc bệnh tâm thần hoặc một bệnh khác làm mất khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi của mình, thì không phải chịu trách nhiệm hình sự; đối với người này, phải áp dụng biện pháp bắt buộc chữa bệnh.

Hỏi: Con trai tôi năm nay 20 tuổi mắc bệnh tâm thần từ nhỏ. Vừa qua, gia đình tôi bất cẩn nên con tôi trốn ra khỏi nhà và ra đường đánh người. Không ý thức được việc mình làm nên con tôi cứ gặp ai trên đường là đánh, có người bị thương rất nặng. Đề nghị Luật sư tư vấn, con tôi có bị truy cứu trách nhiệm hình sự không? (Đặng Thị Uyên - Hải Dương)

>>>Luật sư tư vấn pháp luật qua tổng đài (24/7) gọi: 1900 6198

Luật gia Nguyễn Thị Tâm - Tổ tư vấn pháp luật hình sự của Công ty Luật TNHH Everest - trả lời:

Bộ luật Hình sự năm 1999 sửa đổi, bổ sung năm 2009 quy định như sau:

Tình trạng không có năng lực trách nhiệm hình sự: “1. Người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội trong khi đang mắc bệnh tâm thần hoặc một bệnh khác làm mất khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi của mình, thì không phải chịu trách nhiệm hình sự; đối với người này, phải áp dụng biện pháp bắt buộc chữa bệnh. 2. Người phạm tội trong khi có năng lực trách nhiệm hình sự, nhưng đã lâm vào tình trạng quy định tại khoản 1 Điều này trước khi bị kết án, thì cũng được áp dụng biện pháp bắt buộc chữa bệnh. Sau khi khỏi bệnh, người đó có thể phải chịu trách nhiệm hình sự” (Điều 13).

Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của người khác: “1. Người nào cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ thương tật từ 11% đến 30% hoặc dưới 11% nhưng thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ sáu tháng đến ba năm: a) Dùng hung khí nguy hiểm hoặc dùng thủ đoạn gây nguy hại cho nhiều người; b) Gây cố tật nhẹ cho nạn nhân; c) Phạm tội nhiều lần đối với cùng một người hoặc đối với nhiều người; d) Đối với trẻ em, phụ nữ đang có thai, người già yếu, ốm đau hoặc người khác không có khả năng tự vệ; đ) Đối với ông, bà, cha, mẹ, người nuôi dưỡng, thầy giáo, cô giáo của mình; e) Có tổ chức; g) Trong thời gian đang bị tạm giữ, tạm giam hoặc đang bị áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở giáo dục; h) Thuê gây thương tích hoặc gây thương tích thuê; i) Có tính chất côn đồ hoặc tái phạm nguy hiểm; k) Để cản trở người thi hành công vụ hoặc vì lý do công vụ của nạn nhân” (Điều 104).

Như vậy, theo quy định của pháp luật, con trai anh (chị) phạm tội cố ý gây thương tích. Tuy nhiên, con trai anh (chị) phạm tội trong khi đang mắc bệnh tâm thần. Do đó, con trai anh (chị) không phải chịu trách nhiệm hình sự nhưng con trai anh (chị) bị áp dụng biện pháp bắt buộc chữa bệnh. Mặt khác, việc con trai anh (chị) có thực sự mắc bệnh hay không cần được hội đồng giám định tâm thần xác định và kết luận. Khi giám định, hội đồng giám định sẽ kết luận người phạm tội có bị hạn chế về mặt nhận thức hay không.

Khuyến nghị:

  1. Để có tư vấn chính xác và cụ thể hơn, Quý vị vui lòng liên hệ với các Luật sư, chuyên gia của Công ty Luật TNHH Everest qua Tổng đài tư vấn pháp luật 1900 6198.
  2. Nội dung tư vấn pháp luật hình sự mà Công ty Luật TNHH Everest cung cấp, Quý vị chỉ nên xem như nguồn tài liệu tham khảo.
  3. Các điều luật chúng tôi viện dẫn trong bài viết có thể đã hết hiệu lực hoặc đã được sửa đổi, bổ sung. Các thông tin trong tình huống là cá biệt. Do đó, Chúng tôi không đảm bảo những thông tin này có thể áp dụng cho mọi trường hợp, mọi đối tượng, ở mọi thời điểm.