Thẩm quyền ra lệnh khám xét theo quy định của Bộ luật Tố tụng Hình sự

Khám xét là biện pháp điều tra có tính hiệu quả. Hoạt động khám xét cần bảo đảm tuân thủ quy định pháp luật, đồng thời bảo đảm tính bí mật, bất ngờ. Vì vậy người có thẩm quyền khám xét cần là những người nắm rõ các quy định của pháp luật.

Thẩm quyền ra lệnh khám xét đã được quy định cụ thể tại Điều 193, Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015.
Luật sư tư vấn pháp luật hình sự - Tổng đài tư vấn (24/7): 1900 6198
Luật sư tư vấn pháp luật hình sự - Tổng đài tư vấn (24/7): 1900 6198

Căn cứ luật định

Điều 193, Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015 quy định về thẩm quyền ra lệnh khám xét như sau:

“(1). Những người có thẩm quyền quy định tại khoản 1 Điều 113 của Bộ luật này có quyền ra lệnh khám xét. Lệnh khám xét của những người được quy định tại khoản 2 Điều 35 và điểm a khoản 1 Điều 113 của Bộ luật này phải được Viện kiểm sát có thẩm quyền phê chuẩn trước khi thi hành.
(2). Trong trường hợp khẩn cấp, những người có thẩm quyền quy định tại khoản 2 Điều 110 của Bộ luật này có quyền ra lệnh khám xét. Trong thời hạn 24 giờ kể từ khi khám xét xong, người ra lệnh khám xét phải thông báo bằng văn bản cho Viện kiểm sát cùng cấp hoặc Viện kiểm sát có thẩm quyền thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra vụ việc, vụ án.
(3). Trước khi tiến hành khám xét, Điều tra viên phải thông báo cho Viện kiểm sát cùng cấp về thời gian và địa điểm tiến hành khám xét để cử Kiểm sát viên kiểm sát việc khám xét́t, trừ trường hợp khám xét khẩn cấp. Kiểm sát viên phải có mặt để kiểm sát việc khám xét. Nếu Kiểm sát viên vắng mặt thì ghi rõ vào biên bản khám xét.
(4). Mọi trường hợp khám xét đều được lập biên bản theo quy định tại Điều 178 của Bộ luật này và đưa vào hồ sơ vụ án”.


Về thẩm quyền ra lệnh khám xét

Tại khoản 1, điều l93, Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015 quy định về thẩm quyền ra lệnh khám xét.
Về kĩ thuật lập pháp, điều luật dẫn chiếu đến khoản 1, điều 113 (quy định về thẩm quyền ra lệnh, quyết định bắt bị can, bị cáo để tạm giam) và khoản 2, điều 35 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 (quy định vê người được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra). Theo đó, những người có thẩm quyền ra lệnh khám xét gồm có:

a) Thủ trưởng, Phó Thủ trưởng Cơ quan điều tra các cấp;
b) Viện trưởng, Phó Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân và Viện trường, Phó Viện trưởng Viện kiểm sát quân sự các cấp;
c) Chánh án, Phó Chánh án Tòa án nhân dân và Chánh án, Phó Chánh án Tòa án quân sự các cấp, hội đồng xét xử;
d) Người được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra của Bộ đội biên phòng, Hải quan, Kiểm lâm, lực lượng Cảnh sát biển, Kiểm ngư ... quy định tại khoản 2 điều 35 Bộ luật Tố tụng hình sự.

Như vậy, thẩm quyền ra lệnh khám xét được trao rộng cho người tiến hành tố tụng của cả 3 cơ quan: Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án nhằm đảm bảo hiệu quả của biện pháp điêu tra này.

Tuy nhiên, do khám xét là biện pháp ảnh hưởng trực tiếp đến các quyền cơ bản của công dân, nhà làm luật cũng quy định, lệnh khám xét của Thủ trưởng, Phó Thủ trưởng Cơ quan điều tra các cấp và người được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra của Bộ đội biên phòng, Hải quan, Kiểm lâm, lực lượng Cảnh sát biển, Kiểm ngư ... quy định tại khoản 2 điêu 35 Bộ luật Tố tụng hình sự phải được Viện kiểm sát có thẩm quyền phê chuẩn trước khi thi hành.


Thẩm quyền khám xét trong trường hợp khẩn cấp

Tại khoản 2, điều 193 cũng quy định những người có quyền ra lệnh giữ người trong trường hợp khẩn cấp quy định tại khoản 2 điều 110 Bộ luật Tố tụng hình sự có quyền ra lệnh khám xét trong trường hợp khẩn cấp, bao gồm:

a) Thủ trưởng, Phó Thủ trưởng Cơ quan điều tra các cấp;
b) Thủ trưởng đơn vị độc lập cấp trung đoàn và tương đương, Đồn trưởng Đồn biên phòng, Chi huy trưởng Biên phòng Cửa khẩu cảng, Chỉ huy trưởng Bộ đội biên phòng tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, Cục trưởng Cục trinh sát biên phòng Bộ đội biên phòng, Cục trưởng Cục phòng, chống ma túy và tội phạm Bộ đội biên phòng, Đoàn trưởng Đoàn đặc nhiệm phòng, chống ma túy và tội phạm Bộ đội biên phòng; Tư lệnh vùng lực lượng Cảnh sát biển, Cục trưởng Cục Nghiệp vụ và pháp luật lực lượng Cảnh sát biên, Đoàn trường Đoàn đặc nhiệm phòng, chống tội phạm ma túy lực lượng Cảnh sát biên; Chi cục trưởng Chi cục Kiêm ngư vùng;
c) Người chỉ huy tàu bay, tàu biển khi tàu bay, tàu biển đã rời khỏi sân bay, bển càng.

Như vậy, trong trường hợp khẩn cấp nếu không tiến hành khám xét thì bị can sẽ tiêu hủy chứng cứ, tài liệu có ý nghĩa đối với việc giải quyệt vụ án, người bị truy nã sẽ bỏ trốn hoặc những người phạm tội sẽ di chuyển nạn nhân bị bắt cóc.

Trong thời hạn 24 giờ kể từ khi khám xét xong, người ra lệnh khám xét phải thông báo bằng văn bản cho Viện kiểm sát cùng cấp hoặc Viện kiểm sát có thẩm quyền thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra vụ việc, vụ án.


Cơ quan kiểm sát hoạt động khám xét

Tại khoản 3, điều 193 ở trên cũng đã quy định rõ về việc kiểm sát hoạt động khám xét.

Khám xét là biện pháp điều tra có tính cưỡng chế và tác động trực tiếp tới các quyền cơ bản hiến định của công dân. Do đó, biện pháp này phải được kiểm sát chặt chẽ bởi Viện kiểm sát. Điều luật quy định trước khi tiến hành khám xét, Điều tra viên phải thông báo cho Viện kiểm sát cùng cấp về thời gian và địa điểm tiến hành khám xét để cử Kiểm sát viên kiêm sát việc khám xét, trừ trường hợp khám xét khẩn cấp. Kiểm sát viên phải có mặt để kiểm sát việc khám xét. Nếu Kiểm sát vắng mặt thì ghi rõ vào biên bản khám xét.

Đồng thời tại khoản 4, điều 193 quy định mọi trường hợp khám xét đều được lập biên bản theo quy định tại Điều 178 của Bộ luật Tố tụng hình sự và đưa vào hồ sơ vụ án.


Khuyến nghị của Công ty Luật TNHH Everest:

  1. Bài viết trong lĩnh vực hình sự (nêu trên) được luật sư, chuyên gia của Công ty Luật TNHH Everest thực hiện nhằm mục đích nghiên cứu khoa học hoặc phổ biến kiến thức pháp luật, hoàn toàn không nhằm mục đích thương mại.
  2. Bài viết có sử dụng những kiến thức hoặc ý kiến của các chuyên gia được trích dẫn từ nguồn đáng tin cậy. Tại thời điểm trích dẫn những nội dung này, chúng tôi đồng ý với quan điểm của tác giả. Tuy nhiên, quý Vị chỉ nên coi đây là những thông tin tham khảo, bởi nó có thể chỉ là quan điểm cá nhân người viết.
  3. Trường hợp cần giải đáp thắc mắc về vấn đề có liên quan, hoặc cần ý kiến pháp lý cho vụ việc cụ thể, Quý vị vui lòng liên hệ với chuyên gia, luật sư của Công ty Luật TNHH Everest qua Tổng đài tư vấn pháp luật 1900 6198, E-mail: [email protected].