Bỏ thương binh, tử sĩ ở trận địa là hành vi của người có trách nhiệm trong chiến đấu không đưa thương binh, từ sĩ về nơi an toàn hoặc không chôn cất tử sĩ theo quy định.
Hành vi không đưa thương binh, tử sĩ ra khỏi trận địa hoặc không chăm sóc, cứu chữa thương binh mặc dù có trách nhiệm phải thực hiện, gây hậu quả nghiêm trọng đến mức phải bị truy cứu trách nhiệm hình sự.
Căn cứ pháp lý tội cố ý bỏ thương binh, tử sỹ hoặc không chăm sóc, cứu chữa thương binh theo Bộ luật hình sự năm 2015
Tội cố ý bỏ thương binh, tử sỹ hoặc không chăm sóc, cứu chữa thương binh được quy định tại điều 417 Bộ luật hình sự năm 2015 như sau:
“ 1. Người nào có trách nhiệm mà cố ý bỏ thương binh, tử sĩ tại trận địa hoặc không chăm sóc, cứu chữa thương binh dẫn đến không tìm thấy thương binh, tử sỹ hoặc thương binh bị chết, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 05 năm.
2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 03 năm đến 10 năm:
a) Là chỉ huy hoặc sĩ quan;
b) Đối với 02 thương binh hoặc 02 tử sỹ trở lên.”
Khái niệm tội cố ý bỏ thương binh, tử sỹ hoặc không chăm sóc, cứu chữa thương binhtheo Bộ luật hình sự năm 2015
Tội cố ý bỏ thương binh, tử sỹ hoặc không chăm sóc, cứu chữa thương binh là hành vi không đưa thương binh, tử sĩ ra khỏi trận địa hoặc không chăm sóc, cứu chữa thương binh mặc dù có trách nhiệm phải thực hiện, gây hậu quả nghiêm trọng đến mức phải bị truy cứu trách nhiệm hình sự.
Khách thể tội cố ý bỏ thương binh, tử sỹ hoặc không chăm sóc, cứu chữa thương binh
Tội phạm xâm phạm vào chính sách của Nhà nước đối với thương binh, tử sĩ trong chiến đấu, xâm phạm kỷ luật chiến trường, chế độ chăm sóc, cứu chữa thương binh, việc chôn cất tử sĩ trong chiến đấu, lợi ích của thương binh và gia đình liệt sĩ.
Mặt khách quan tội cố ý bỏ thương binh, tử sỹ hoặc không chăm sóc, cứu chữa thương binh
Mặt khách quan của tội phạm thể hiện bởi hai dạng hành vi:
Bỏ thương binh, tử sĩ ở trận địa là hành vi của người có trách nhiệm trong chiến đấu không đưa thương binh, từ sĩ về nơi an toàn hoặc không chôn cất tử sĩ theo quy định.
Không chăm sóc, cứu chữa thương binh là hành vi của người có trách nhiệm chăm sóc, điều trị cho thương binh nhưng không thực hiện đúng nhiệm vụ như: không băng bó, vệ sinh vết thương, không tiêm thuốc, bỏ đói thương binh...
Các hành vi trên là nguyên nhân trực tiếp dẫn đến hậu quả thiệt hại về tính mạng của thương binh và thân thể của tử sĩ. Trong đó, thiệt hại về tính mạng đối với thương binh, thiệt hại về thân thể đối với tử sĩ là hậu quả bắt buộc trong cấu thành tội phạm.
Như vậy, tội phạm này xâm phạm đến quan hệ về trách nhiệm, nghĩa vụ của quân nhân trong chiến đấu đối với thương binh, tử sĩ, xâm phạm đến tính mạng, sức khỏe của thương binh và quyền lợi của tử sĩ.
Hành vi không chăm sóc, cứu chữa thương binh là hành vi của quân nhân có trách nhiệm nhưng không chăm sóc, cứu chữa thương binh dẫn đến không tìm thấy thương binh, tử sỹ hoặc thương binh bị chết (có nghĩa là nếu như trong điều kiện đó quân nhân thực hiện việc chăm sóc làm cho vết của thương binh, tử sỹ thì sẽ không có hậu quả này xảy ra).
Mặt chủ quan tội cố ý bỏ thương binh, tử sỹ hoặc không chăm sóc, cứu chữa thương binh
Tội phạm được thực hiện với lỗi cố ý.
Chủ thể tội cố ý bỏ thương binh, tử sỹ hoặc không chăm sóc, cứu chữa thương binh
Chủ thể của tội phạm là những người phục vụ trong quân đội được quy định tại Điều 392 Bộ luật hình sự năm 2015 có trách nhiệm đưa thương binh, tử sĩ về nơi an toàn hoặc có trách nhiệm chăm sóc, cứu chữa thương binh.
Hình phát tội cố ý bỏ thương binh, tử sỹ hoặc không chăm sóc, cứu chữa thương binh
Người phạm tội cố ý bỏ thương binh, tử sỹ hoặc không chăm sóc, cứu chữa thương binh
Phạm tội theo quy định tại Khoản 1, Điều 417 Bộ luật hình sự thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm.
Phạm tội trong trường hợp là chỉ huy hoặc sĩ quan, đối với 02 thương binh hoặc 02 tử sĩ trở lên theo quy định tại Khoản 2, Điều 417 Bộ luật hình sự thì bị phạt từ 03 năm đến 10 năm.
Khuyến nghị của Công ty Luật TNHH Everest:
- Bài viết nêu trên được luật sư, chuyên gia của Công ty Luật TNHH Everest thực hiện nhằm mục đích nghiên cứu khoa học hoặc phổ biến kiến thức pháp luật, hoàn toàn không nhằm mục đích thương mại.
- Bài viết có sử dụng những kiến thức hoặc ý kiến của các luật sư, chuyên gia được trích dẫn từ nguồn đáng tin cậy. Tại thời điểm trích dẫn những nội dung này, chúng tôi đồng ý với quan điểm của tác giả. Tuy nhiên, quý Vị chỉ nên coi đây là những thông tin tham khảo, bởi nó có thể chỉ là quan điểm cá nhân người viết.
- Trường hợp cần giải đáp thắc mắc về vấn đề có liên quan, hoặc cần ý kiến pháp lý cho vụ việc cụ thể, Quý vị vui lòng liên hệ với chuyên gia, luật sư của Công ty Luật TNHH Everest qua Tổng đài tư vấn pháp luật1900 6198, E-mail: [email protected].
Bình luận