Tội dùng nhục hình theo quy định của Bộ luật Hình sự

Tội dùng nhục hình được quy định tại Điều 298 Bộ luật Hình sự năm 1999 sửa đổi, bổ sung năm 2009.

Điều 298 Bộ luật Hình sự năm 1999 sửa đổi, bổ sung năm 2009 quy định về tội dùng nhục hình như sau: “1. Người nào dùng nhục hình trong hoạt động điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án, thì bị phạt tù từ sáu tháng đến ba năm. 2. Phạm tội gây hậu quả nghiêm trọng thì bị phạt tù từ hai năm đến bảy năm. 3. Phạm tội gây hậu quả rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng, thì bị phạt tù từ năm năm đến mười hai năm. 4. Người phạm tội còn bị cấm đảm nhiệm chức vụ nhất định từ một năm đến năm năm”.

>>>Luật sư tư vấn pháp luật qua tổng đài (24/7): 1900 6198

Theo đó, dùng nhục hình là hành vi của người có thẩm quyền trong hoạt động điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án đã dùng vũ lực, đe doạ dùng vũ lực hoặc dùng các thủ đoạn khác gây tổn hại đến tính mạng, sức khoẻ, nhân phẩm, danh dự đối với người bị tạm giữ, tạm giam, bị can, bị cáo, người bị kết án và những người tham gia tố tụng khác.

Theo đó, tội phạm này có các dấu hiệu pháp lý sau:

1. Khách thể của tội phạm

Tội phạm này xâm phạm đến sự hoạt động đúng đắn của cơ quan tư pháp; xâm phạm đến quyền được tôn trọng, và bảo vệ về tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm của công dân; đồng thời ảnh hưởng xấu đến kết quả của cuộc đấu tranh chống tội phạm.

2. Chủ thể của tội phạm


Chủ thể của tội phạm này là chủ thể đặc biệt. Ngoài việc phải đáp ứng yêu cầu về độ tuổi (từ đủ 16 tuổi trở lên) và năng lực trách nhiệm hình sự, người phạm tội của chủ thể này phải là người có chức vụ, quyền hạn trong việc điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án.

3. Mặt khách quan của tội phạm

Hành vi khách quan của tội phạm này là hành vi dùng nhục hình, là những hành vi có tính chất hành hạ, gây đau đớn về thể xác, xúc phạm đến nhân phẩm danh dự của người khác.

Hậu quả không phải là dấu hiệu cấu thành tội phạm bắt buộc đối với tội phạm này. Chỉ cần có hành vi dùng nhục hình trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án đều sẽ bị truy cứu trách nhiệm hình sự. Tuy nhiên, mức độ nghiêm trọng của hậu quả sẽ là yếu tố xem xét quyết định hình phạt cho người phạm tội.

4. Mặt chủ quan của tội phạm

Lỗi của người phạm tội là lỗi cố ý. Người phạm tội nhận thức rõ hành vi của mình là trái pháp luật, thấy trước hậu quả của hành vi đó và mong muốn hậu quả xảy ra hoặc tuy chỉ thấy trước hậu quả của hành vi đó có thể xảy ra, tuy không mong muốn nhưng vẫn có ý thức để mặc cho hậu quả xảy ra.


Quý vị tìm hiểu thêm thông tin chi tiết hoặc liên hệ với Luật sư, Luật gia của Công ty Luật TNHH Everest để yêu cầu cung cấp dịch vụ:
  1. Địa chỉ: Tầng 19 Tòa nhà Thăng Long Tower, 98 Ngụy Như Kom Tum, Thanh Xuân, Hà Nội
  2. Văn phòng giao dịch: Tầng 2, Toà nhà Ngọc Khánh, 37 Nguyễn Sơn, Long Biên, Hà Nội
  3. Điện thoại: (04) 66.527.527 - Tổng đài tư vấn pháp luật: 1900-6218
  4. E-mail:[email protected], hoặc E-mail: [email protected].