Có được tính thời gian tạm giữ, tạm giam vào thời hạn chấp hành hình phạt tù không?

Tạm giam có thể được áp dụng đối với bị can, bị cáo trong những trường hợp sau đây: a) Bị can, bị cáo phạm tội đặc biệt nghiêm trọng; phạm tội rất nghiêm trọng; b) Bị can, bị cáo phạm tội nghiêm trọng, phạm tội ít nghiêm trọng mà Bộ luật Hình sự quy định....

Hỏi: Con trai tôi hiện đang bị tạm giam để điều tra về hành vi trộm cắp tài sản có tổ chức. Đề nghị Luật sư tư vấn, việc cơ quan công an tiến hành bắt tạm giam con trai như thế có đúng pháp luật không? Thời gian con trai tôi bị tạm giam có được tính vào thời gian chấp hành hình phạt tù không? (Lê Hoàng – Bình Định)


>>>Luật sư tư vấn pháp luật qua tổng đài (24/7) gọi: 1900 6198

Luật gia Nguyễn Thị Thuỳ - Tổ tư vấn pháp luật Hình sự Công ty Luật TNHH Everest – trả lời:

Khoản 1 Điều 88 Bộ luật Tố tụng hình sự quy định về đối tượng bị tạm giam như sau:
“Tạm giam có thể được áp dụng đối với bị can, bị cáo trong những trường hợp sau đây: a) Bị can, bị cáo phạm tội đặc biệt nghiêm trọng; phạm tội rất nghiêm trọng; b) Bị can, bị cáo phạm tội nghiêm trọng, phạm tội ít nghiêm trọng mà Bộ luật Hình sự quy định hình phạt tù trên hai năm và có căn cứ cho rằng người đó có thể trốn hoặc cản trở việc điều tra, truy tố, xét xử hoặc có thể tiếp tục phạm tội”.

Bộ luật Hình sự năm 1999 sửa đổi, bổ sung năm 2009 quy định như sau:
Về các loại tội phạm: “Tội phạm ít nghiêm trọng là tội phạm gây nguy hại không lớn cho xã hội mà mức cao nhất của khung hình phạt đối với tội ấy là đến ba năm tù; tội phạm nghiêm trọng là tội phạm gây nguy hại lớn cho xã hội mà mức cao nhất của khung hình phạt đối với tội ấy là đến bảy năm tù; tội phạm rất nghiêm trọng là tội phạm gây nguy hại rất lớn cho xã hội mà mức cao nhất của khung hình phạt đối với tội ấy là đến mười lăm năm tù; tội phạm đặc biệt nghiêm trọng là tội phạm gây nguy hại đặc biệt lớn cho xã hội mà mức cao nhất của khung hình phạt đối với tội ấy là trên mười lăm năm tù, tù chung thân hoặc tử hình” (Khoản 3 Điều 8).

Về tù có thời hạn: “Tù có thời hạn là việc buộc người bị kết án phải chấp hành hình phạt tại trại giam trong một thời hạn nhất định. Tù có thời hạn đối với người phạm một tội có mức tối thiểu là ba tháng, mức tối đa là hai mươi năm. Thời gian tạm giữ, tạm giam được trừ vào thời hạn chấp hành hình phạt tù, cứ một ngày tạm giữ, tạm giam bằng một ngày tù” (Điều 55).

Về tội trộm cắp tài sản: “2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ hai năm đến bảy năm: a) Có tổ chức” (Điểm a khoản 2 Điều 138).

Như vậy, theo các quy định trên thì tạm giam bị áp dụng đối với những bị can bị cáo phạm tội rất nghiêm trọng (là tội phạm có mức cao nhất của khung hình phạt là 15 năm tù), phạm tội đặc biệt nghiêm trọng (tội phạm có mức cao nhất của khung hình phạt là trên 15 năm tù, tù chung thân hoặc tử hình); hoặc phạm tội nghiêm trọng (mức cao nhất của khung hình phạt là đến 07 năm tù), tội ít nghiêm trọng (mức cao nhất của khung hình phạt là 03 năm tù) mà Bộ luật Hình sự quy định hình phạt tù trên 02 năm, và có căn cứ cho rằng người đó có thể trốn hoặc cản trở việc điều tra, truy tố. Và thời gian tạm giữ, tạm giam được trừ vào thời hạn chấp hành hình phạt tù. Theo đó, với trường hợp của con trai chị, thì như chị có trình bày, con trai chị bị bắt điều tra về tội trộm cắp tài sản theo quy định tại điểm a khoản 2 Điều 138 Bộ luật Hình sự với mức phạt tù cao nhất đến 07 năm thuộc loại tội phạm nghiêm trọng. Do vậy, trường hợp cơ quan công an có căn cứ cho rằng con trai chị có thể trốn hoặc cản trở việc điều tra, truy tố thì con trai chị hoàn toàn có thể bị tạm giam. Thời gian con trai chị bị tạm giam sẽ được trừ vào thời hạn chấp hành hình phạt tù theo quy định.

Khuyến nghị:
  1. Để có ý kiến tư vấn chính xác và cụ thể hơn, Quý vị vui lòng liên hệ với các Luật sư chuyên gia của Công ty Luật TNHH Everest qua Tổng đài tư vấn pháp luật 1900 6198, hoặc E-mail: [email protected].
  2. Nội dung bài tư vấn pháp luật hình sự mà Công ty Luật TNHH Everest cung cấp, Quý vị chỉ nên xem như nguồn tài liệu tham khảo.
  3. Tại thời điểm quý Vị đọc bài viết này, các điều luật chúng tôi viện dẫn có thể đã hết hiệu lực, hoặc đã được sửa đổi, bổ sung; các thông tin trong tình huống là cá biệt. Do đó, chúng tôi không đảm bảo những thông tin này có thể áp dụng cho mọi trường hợp, mọi đối tượng, ở mọi thời điểm.