Khi tiến hành hoạt động tố tụng các cơ quan có thẩm quyền, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng phải lập biên bản theo mẫu thống nhất. Đây là căn cứ pháp lý ghi lại diễn biến cụ thể cũng như kết quả của các hoạt động tố tụng hình sự.
Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 quy định cụ thể về việc lập biên bản trong các hoạt động kiểm tra, xác minh nguồn tin về tội phạm, khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử và các hoạt động tố tụng của cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng phải được thể hiện bằng biên bản, được lưu trong hồ sơ vụ án. Các biên bản này có thể được coi là chứng cứ nếu nó được lập theo đúng trình tự, thủ tục quy định trong Bộ luật tố tụng hình sự, phản ánh trung thực các hoạt động tố tụng diễn ra và phù hợp với các tình tiết khác trong vụ án.
Căn cứ pháp lý biên bản trong hoạt động tố tụng hình sự
Điều 133 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 quy định về biên bản như sau:
“1.Khi tiến hành hoạt động tố tụng phải lập biên bản theo mẫu thống nhất.
Biên bản ghi rõ địa điểm, giờ, ngày, tháng, năm tiến hành tố tụng, thời gian bắt đầu và thời gian kết thúc, nội dung của hoạt động tố tụng, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng hoặc người liên quan đến hoạt động tố tụng, khiếu nại, yêu cầu hoặc đề nghị của họ.
2.Biên bản phải có chữ ký của những người mà Bộ luật này quy định. Những điểm sửa chữa, thêm, bớt, tẩy xóa trong biên bản phải được xác nhận bằng chữ ký của họ.
Trường hợp người tham gia tố tụng không ký vào biên bản thì người lập biên bản ghi rõ lý do và mời người chứng kiến ký vào biên bản.
Trường hợp người tham gia tố tụng không biết chữ thì người lập biên bản đọc biên bản cho họ nghe với sự có mặt của người chứng kiến. Biên bản phải có điểm chỉ của người tham gia tố tụng và chữ ký của người chứng kiến.
Trường hợp người tham gia tố tụng có nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất hoặc vì lý do khác mà không thể ký vào biên bản thì người lập biên bản đọc biên bản cho họ nghe với sự có mặt của người chứng kiến và những người tham gia tố tụng khác. Biên bản phải có chữ ký của người chứng kiến.”
Biên bản là gì?
Biên bản là một loại văn bản ghi chép lại những sự việc đã xảy ra hoặc đang xảy ra. Khi tiến hành hoạt động tố tụng các cơ quan có thẩm quyền, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng phải lập biên bản theo mẫu thống nhất. Điều 87 Bộ luật Tố tụng hình sự (quy định về chứng cứ) tại điểm đ khoản 1 quy định biên bản về hoạt động khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án là một trong những nguồn của chứng cứ. Chính vì vậy, chúng luôn luôn có giá trị để chứng minh về một tình tiết nào đó của vụ án hình sự. Biên bản được lập trong quá trình tiến hành tố tụng phải được đưa vào hồ sơ vụ án.
Biên bản lập trong quá trình tiến hành tố tụng là căn cứ xác định người phải có thẩm quyền chịu trách nhiệm chính, phản ánh diễn biến, trình tự thực hiện các hoạt động tố tụng của các cơ quan, người có thẩm quyền. Ngoài ra, hành vi và hoạt động tố tụng bao giờ cũng được tiến hành ở một thời điểm và địa điểm nào đó nên pháp luật quy định khi tiến hành các hoạt động tố tụng trong biên bản phải ghi rõ địa điểm, giờ, ngày, tháng, năm tiến hành tố tụng, thời gian bắt đầu và thời gian kết thúc, nội dung của hoạt động tố tụng, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng hoặc người liên quan đến hoạt động tố tụng, khiếu nại, yêu cầu hoặc đề nghị của họ.
Để đảm bảo tính khách quan biên bản cần đáp ứng yêu cầu gì?
Để đảm bảo khách quan trong quá trình thực hiện các hoạt động tố tụng, Khoản 2 điều luật được bình luận quy định mọi biên bản được lập trong quá trình thực hiện tố tụng phải có chữ ký cùa người lập, người làm chứng, người chứng kiến, người tham gia theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Những điểm sửa chữa, thêm, bớt, tẩy xóa trong biên bản phải được xác nhận bằng chữ ký của họ.
Trường hợp người tham gia tố tụng không ký vào biên bản thì người lập biên bản ghi rõ lý do và mời người chứng kiến ký vào biên bản.
Trường hợp người tham gia tố tụng không biết chữ thì người lập biên bản đọc biên bản cho họ nghe với sự có mặt của người chứng kiến. Biên bản phải có điểm chỉ của người tham gia tố tụng và chữ ký của người chứng kiến.
Trường hợp người tham gia tố tụng có nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất hoặc vì lý do khác mà không thể ký vào biên bản thì người lập biên bản đọc biên bản cho họ nghe với sự có mặt của người chứng kiến và những người tham gia tố tụng khác. Biên bản phải có chữ ký của người chứng kiến.
Khuyến nghị của Công ty Luật TNHH Everest:
- Bài viết được luật sư, chuyên gia của Công ty Luật TNHH Everest thực hiện nhằm mục đích nghiên cứu khoa học hoặc phổ biến kiến thức pháp luật, hoàn toàn không nhằm mục đích thương mại.
- Bài viết có sử dụng những kiến thức hoặc ý kiến của các chuyên gia được trích dẫn từ nguồn đáng tin cậy. Tại thời điểm trích dẫn những nội dung này, chúng tôi đồng ý với quan điểm của tác giả. Tuy nhiên, quý Vị đây chỉ nên coi đây là những thông tin tham khảo, bởi nó có thể chỉ là quan điểm cá nhân người viết.
- Trường hợp cần giải đáp thắc mắc về vấn đề có liên quan, hoặc cần ý kiến pháp lý cho vụ việc cụ thể, Quý vị vui lòng liên hệ với chuyên gia, luật sư của Công ty Luật TNHH Everest qua Tổng đài tư vấn pháp luật 19006198, E-mail: [email protected].
Bình luận