Hành vi trộm cắp tài sản là hành vi lén lút, lợi dụng sơ hở, mất cảnh giác của chủ tài sản hoặc người quản lý tài sản để chiếm đoạt tài sản.
Căn cứ pháp lý của tội trộm cắp tài sản
Cấu thành tội phạm của tội trộm cắp tài sản
(i) Chủ thể của tội trộm cắp tài sản
Cũng tương tự như đối với tội xâm phạm sở hữu khác, chủ thể của tội trộm cắp tái sản là chủ thể thường. Nghĩa là, bất kỳ người nào đủ tuổi và có năng lực trách nhiệm hình sự đều có thể trở thành chủ thể của tội trộm cắp tài sản. Nười phạm tội từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi không phải chịu trách nhiệm hình sự về tội trộm cắp tài sản thuộc trường hợp quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều 173 Bộ luật Hình sự do đây là trường hợp phạm tội ít nghiêm trọng và tội phạm nghiêm trọng.(ii) Khách thể của tội trộm cắp tài sản
Tội trộm cắp tài sản chỉ xâm phạm đến quan hệ sở hữu, mà không xâm phạm đến quan hệ về nhân thân. Đây là điểm khác với các tội cướp tài sản, tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản, tội cướp giật tài sản, bởi trong cấu thành tội trộm cắp tài sản nhà làm luật không quy định thiệt hại về tính mạng, sức khoẻ là tình tiết định khung hình phạt.(iii) Mặt khách quan của tội trộm cắp tài sản
Hành vi khách quan: là hành vi "chiếm đoạt" tài sản, nhưng hành vi chiếm đoạt ở đây là chiếm đoạt bằng hình thức lén lút, với thủ đoạn lợi dụng sơ hở, mất cảnh giác của người quản lý tài sản, hoặc lợi dụng vào hoàn cảnh khách quan khác như: chen lấn, xô đẩy, nhằm tiếp cận tài sản để thực hiện hành vi chiếm đoạt mà người quản lý tài sản không biết.Hậu quả pháp lý: hậu quả của tội trộm cắp tài sản là thiệt hại về tài sản mà cụ thể là giá trị tài sản bị chiếm đoạt. Tài sản là đối tượng của hành vi trộm cắp là: tiền các loại, hàng hoá và các giấy tờ có giá trị thanh toán như phiếu công trái, ngân phiếu….
(iv) Mặt chủ quan của tội trộm cắp tài sản
Tội trộm cắp tài sản cũng được thực hiện do cố ý, mục đích của người phạm tội là mong muốn chiếm đoạt được tài sản. Mục đích chiếm đoạt tài sản là dấu hiệu bắt buộc của cấu thành tội trộm cắp tài sản. Tuy nhiên, ngoài mục đích chiếm đoạt, người phạm tội còn có thể có những mục đích khác cùng với mục đích chiếm đoạt hoặc chấp nhận mục đích chiếm đoạt của người đồng phạm khác thì người phạm tội cũng chỉ bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội trộm cắp tài sản, nếu mục đich đó không cấu thành một tội phạm độc lập. Ví dụ: Vì ghét B nên A đã xúi giục C lấy trộm xe của B, nhưng không đòi C phải chia tiền bán xe cho mình. Trong trường hợp này, A sẽ bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội trộm cắp tài sản với vai trò là đồng phạm (người xúi giục) mặc dù mục đích của A không phải là chiếm đoạt là tài sản.- Bài viết trong lĩnh vực hình sự (nêu trên) được luật sư, chuyên gia của Công ty Luật TNHH Everest thực hiện nhằm mục đích nghiên cứu khoa học hoặc phổ biến kiến thức pháp luật, hoàn toàn không nhằm mục đích thương mại.
- Bài viết có sử dụng những kiến thức hoặc ý kiến của các chuyên gia được trích dẫn từ nguồn đáng tin cậy. Tại thời điểm trích dẫn những nội dung này, chúng tôi đồng ý với quan điểm của tác giả. Tuy nhiên, quý Vị chỉ nên coi đây là những thông tin tham khảo, bởi nó có thể chỉ là quan điểm cá nhân người viết.
- Trường hợp cần giải đáp thắc mắc về vấn đề có liên quan, hoặc cần ý kiến pháp lý cho vụ việc cụ thể, Quý vị vui lòng liên hệ với chuyên gia, luật sư của Công ty Luật TNHH Everest qua Tổng đài tư vấn pháp luật 1900 6198, E-mail: [email protected].
Bình luận