Chuẩn bị phạm tội trộm cắp tài sản, có phải chịu trách nhiệm hình sự không?

Chuẩn bị phạm tội: Chuẩn bị phạm tội là tìm kiếm, sửa soạn công cụ, phương tiện hoặc tạo ra những điều kiện khác để thực hiện tội phạm. Người chuẩn bị phạm một tội rất nghiêm trọng hoặc một tội đặc biệt nghiêm trọng, thì....

Hỏi: Để có tiền tiêu, H rủ tôi cùng tham gia trộm cắp dây cáp bên đường. Ngày 15/10, sau khi chuẩn bị đủ kìm cắt cáp điện, găng tay và phương tiện là xe máy Wave để di chuyển, tôi và H dự định là tối hôm đó sẽ cùng nhau sau huyện bên để thực hiện hành vi ăn trộm. Thấy tôi cùng H chuẩn bị kìm cắt điện, em trai H hỏi, biết được ý định của tôi và H, em trai H đã ngăn cản tôi và H. Vì vậy, chúng tôi không thực hiện được hành vi trộm cắp của mình. Đề nghị Luật sư tư vấn, nếu em trai H tố cáo hành vi của tôi và H thì tôi có phải chịu trách nhiệm hình sự về tội trộm cắp tài sản không? (Lê An – Thanh Hoá)


>>>Luật sư tư vấn pháp luật qua tổng đài (24/7) gọi: 1900 6198

Luật gia Nguyễn Thị Thuỳ - Tổ tư vấn pháp luật Hình sự Công ty Luật TNHH Everest – trả lời:

Bộ luật Hình sự năm 1999 sửa đổi, bổ sung năm 2009 quy định như sau:

- Chuẩn bị phạm tội: "Chuẩn bị phạm tội là tìm kiếm, sửa soạn công cụ, phương tiện hoặc tạo ra những điều kiện khác để thực hiện tội phạm. Người chuẩn bị phạm một tội rất nghiêm trọng hoặc một tội đặc biệt nghiêm trọng, thì phải chịu trách nhiệm hình sự về tội định thực hiện” (Điều 17).

- Khái niệm tội phạm: "3. Tội phạm ít nghiêm trọng là tội phạm gây nguy hại không lớn cho xã hội mà mức cao nhất của khung hình phạt đối với tội ấy là đến ba năm tù; tội phạm nghiêm trọng là tội phạm gây nguy hại lớn cho xã hội mà mức cao nhất của khung hình phạt đối với tội ấy là đến bảy năm tù; tội phạm rất nghiêm trọng là tội phạm gây nguy hại rất lớn cho xã hội mà mức cao nhất của khung hình phạt đối với tội ấy là đến mười lăm năm tù; tội phạm đặc biệt nghiêm trọng là tội phạm gây nguy hại đặc biệt lớn cho xã hội mà mức cao nhất của khung hình phạt đối với tội ấy là trên mười lăm năm tù, tù chung thân hoặc tử hình” (Khoản 3 Điều 8).

- Tội trộm cắp tài sản: "1. Người nào trộm cắp tài sản của người khác có giá trị từ hai triệu đồng đến dưới năm mươi triệu đồng hoặc dưới hai triệu đồng nhưng gây hậu quả nghiêm trọng hoặc đã bị xử phạt hành chính về hành vi chiếm đoạt hoặc đã bị kết án về tội chiếm đoạt tài sản, chưa được xoá án tích mà còn vi phạm, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ sáu tháng đến ba năm. 2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ hai năm đến bảy năm: a) Có tổ chức; b) Có tính chất chuyên nghiệp; c) Tái phạm nguy hiểm; d) Dùng thủ đoạn xảo quyệt, nguy hiểm; đ) Hành hung để tẩu thoát; e) Chiếm đoạt tài sản có giá trị từ năm mươi triệu đồng đến dưới hai trăm triệu đồng; g) Gây hậu quả nghiêm trọng. 3. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ bảy năm đến mười lăm năm: a) Chiếm đoạt tài sản có giá trị từ hai trăm triệu đồng đến dưới năm trăm triệu đồng; b) Gây hậu quả rất nghiêm trọng. 4. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ mười hai năm đến hai mươi năm hoặc tù chung thân: a) Chiếm đoạt tài sản có giá trị từ năm trăm triệu đồng trở lên; b) Gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng. 5. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ năm triệu đồng đến năm mươi triệu đồng” (Điều 138).

Như vậy, đối với hành vi trộm cắp tài sản của anh mới chỉ dừng ở giai đoạn chuẩn bị phạm tội, do vậy, anh sẽ phải chịu trách nhiệm hình sự nếu anh chuẩn bị phạm một tội rất nghiêm trọng hoặc một tội đặc biệt nghiêm trọng. Trong đó, tội phạm rất nghiêm trọng là tội phạm có mức cao nhất của khung hình phạt là 15 năm tù; tội phạm đặc biệt nghiêm trọng là tội phạm có mức cao nhất của khung hình phạt là trên 15 năm tù, tù chung thân hoặc tử hình. Xét trong trường hợp của anh, vì hành vi của anh mới dừng ở giai đoạn chuẩn bị phạm tội trộm cắp tài sản, do vậy chưa thể xác định đươc hậu quả của hành vi, tài sản trộm cắp có giá trị là bao nhiêu, nên chưa thể xác định được anh phạm tội theo điều khoản của Điều 138 Bộ luật Hình sự.

Khuyến nghị:
  1. Để có ý kiến tư vấn chính xác và cụ thể hơn, Quý vị vui lòng liên hệ với các Luật sư chuyên gia của Công ty Luật TNHH Everest qua Tổng đài tư vấn pháp luật 1900 6198, hoặc E-mail: [email protected].
  2. Nội dung bài tư vấn pháp luật hình sự mà Công ty Luật TNHH Everest cung cấp, Quý vị chỉ nên xem như nguồn tài liệu tham khảo.
  3. Tại thời điểm quý Vị đọc bài viết này, các điều luật chúng tôi viện dẫn có thể đã hết hiệu lực, hoặc đã được sửa đổi, bổ sung; các thông tin trong tình huống là cá biệt. Do đó, chúng tôi không đảm bảo những thông tin này có thể áp dụng cho mọi trường hợp, mọi đối tượng, ở mọi thời điểm.