Người nào cố tình gây thương tích hoặc gây tổn hại sức khỏe của người khác mà tỷ lệ thương tật từ 11% đến 30% hoặc dưới 11% nhưng dùng vũ khí nguy hiểm, gây cố tật nhẹ cho nạn nhân hoặc... chỉ bị truy cứu trách nhiệm hình sự khi có yêu cầu của người bị hại.
Hỏi: Trong lúc cãi nhau với bà Mùi do mẫu thuẫn về việc lấy nước tưới tiêu canh tác, chồng tôi đã cầm cán quốc lia về phía bà Mùi khiến bà Mùi bị thương vùng mắt trái. Sau vụ việc xảy xa, chồng tôi đã bồi thường tiền viện phí và phía bà Mùi cũng làm đơn bãi nại không truy cứu việc này nhưng cơ quan công an vẫn khởi tố chồng tôi về tội có ý gây thương tích. Đề nghị Luật sư tư vấn, bên công an làm như vậy có đúng quy định của pháp luật? (Hoàng Hoa - Yên Bái) Luật gia Bùi Ánh Vân - Tổ tư vấn pháp luật hình sự của Công ty Luật TNHH Everest - trả lời:
Liên quan đến vấn đề chị quan tâm, chúng tôi trích dẫn quy định của pháp luật như sau:
Điều 104. Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của người khác: "1. Người nào cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ thương tật từ 11% đến 30% hoặc dưới 11% nhưng thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ sáu tháng đến ba năm: a) Dùng hung khí nguy hiểm hoặc dùng thủ đoạn gây nguy hại cho nhiều người; b) Gây cố tật nhẹ cho nạn nhân; c) Phạm tội nhiều lần đối với cùng một người hoặc đối với nhiều người; d) Đối với trẻ em, phụ nữ đang có thai, người già yếu, ốm đau hoặc người khác không có khả năng tự vệ; đ) Đối với ông, bà, cha, mẹ, người nuôi dưỡng, thầy giáo, cô giáo của mình; e) Có tổ chức; g) Trong thời gian đang bị tạm giữ, tạm giam hoặc đang bị áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở giáo dục; h) Thuê gây thương tích hoặc gây thương tích thuê; i) Có tính chất côn đồ hoặc tái phạm nguy hiểm; k) Để cản trở người thi hành công vụ hoặc vì lý do công vụ của nạn nhân. 2. Phạm tội gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ thương tật từ 31% đến 60% hoặc từ 11% đến 30%, nhưng thuộc một trong các trường hợp quy định tại các điểm từ điểm a đến điểm k khoản 1 Điều này, thì bị phạt tù từ hai năm đến bảy năm. 3. Phạm tội gây thương tích, gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ thương tật từ 61% trở lên hoặc dẫn đến chết người hoặc từ 31% đến 60%, nhưng thuộc một trong các trường hợp quy định tại các điểm từ điểm a đến điểm k khoản 1 Điều này, thì bị phạt tù từ năm năm đến mười lăm năm. 4. Phạm tội dẫn đến chết nhiều người hoặc trong trường hợp đặc biệt nghiêm trọng khác, thì bị phạt tù từ mười năm đến hai mươi năm hoặc tù chung thân" (Điều 104 Bộ luật Hình sự năm 1999, sửa đổi năm 2009).
Điều 105. Khởi tố vụ án hình sự theo yêu cầu của người bị hại: "1. Những vụ án về các tội phạm được quy định tại khoản 1 các điều 104, 105, 106, 108, 109, 111, 113, 121, 122, 131 và 171 của Bộ luật hình sự chỉ được khởi tố khi có yêu cầu của người bị hại hoặc của người đại diện hợp pháp của người bị hại là người chưa thành niên, người có nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất" (khoản 1 Điều 105 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2003).
Như vậy, người nào cố tình gây thương tích hoặc gây tổn hại sức khỏe của người khác mà tỷ lệ thương tật từ 11% đến 30% hoặc dưới 11% nhưng dùng vũ khí nguy hiểm, gây cố tật nhẹ cho nạn nhân hoặc mang tính chất côn đồ... chỉ bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác khi có yêu cầu của người bị hại. Trường hợp gây thương tích cho nạn nhân từ 31% trở lên hoặc từ 11% đến 30% nhưng dùng hung khí nguy hiểm, gây thương tích cho người già, trẻ em ...thì cơ quan tiến hành tố tụng có quyền truy cứu trách nhiệm với những người này và không phụ thuộc vào yêu cầu của người bị hại.
Theo đó, nếu chồng chị gây thương tích cho người khác từ 31% trở lên hoặc từ 11% đến 30% nhưng có các tình tiết tăng nặng như phạm tội nhiều lần, có tổ chức, mang tính côn đồ thì việc cơ quan công an vẫn khởi tố hình sự đối với chồng chị mặc dù người bị hại đã có đơn bãi nại của người bị hại là đúng quy định của pháp luật.
Khuyến nghị:
- Để có ý kiến tư vấn chính xác và cụ thể hơn, Quý vị vui lòng liên hệ với các Luật sư chuyên gia của Công ty Luật TNHH Everest qua Tổng đài tư vấn pháp luật 1900 6198, hoặc E-mail: [email protected].
- Nội dung bài tư vấn pháp luật hình sự mà Công ty Luật TNHH Everest cung cấp, Quý vị chỉ nên xem như nguồn tài liệu tham khảo.
- Tại thời điểm quý Vị đọc bài viết này, các điều luật chúng tôi viện dẫn có thể đã hết hiệu lực, hoặc đã được sửa đổi, bổ sung; các thông tin trong tình huống là cá biệt. Do đó, chúng tôi không đảm bảo những thông tin này có thể áp dụng cho mọi trường hợp, mọi đối tượng, ở mọi thời điểm.
Bình luận