Đâm bạn gây thương tích phạm tội gì?

Người nào cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ thương tật từ 31% trở lên hoặc dẫn đến chết người do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng, thì bị phạt cảnh cáo...

Hỏi: Con tôi sinh năm 1997, hiện là học sinh lớp 12. Do mâu thuẫn cá nhân nên bạn cùng trường của cháu (sinh năm 1999 học sinh lớp 11) đã đến lớp và đánh con tôi nhưng con tôi không đánh trả. Bạn cùng trường tiếp tục đánh vào mặt và bụng con tôi khiến cháu ngã vào bàn. Lúc đó, con tôi thấy có một con dao gọt hoa quả trong ngăn bàn của bạn cùng lớp và đâm lại bạn đó khiến bạn bị thương nặng. Như vậy, con tôi phạm tội gì? (Nguyễn Hương - Bắc Ninh)

 Luật sư tư vấn pháp luật qua tổng đài (24/7) gọi: 1900 6198
Luật sư tư vấn pháp luật qua tổng đài (24/7) gọi: 1900 6198

Luật gia Võ Thị Như Hoa - Tổ tư vấn pháp luật hình sự của Công ty Luật TNHH Everest - trả lời:

Điều 106 Bộ luật Hình sự 1999, sửa đổi bổ sung năm 2009 quy đinh về Tội cố ý gây thương tích
hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của người khác do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng như sau: "1. Người nào cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ thương tật từ 31% trở lên hoặc dẫn đến chết người do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng, thì bị phạt cảnh cáo, cải tạo không giam giữ đến hai năm hoặc phạt tù từ ba tháng đến một năm. 2. Phạm tội đối với nhiều người thì bị phạt tù từ một năm đến ba năm".

Như vậy, con của chị có thể phải chịu trách nhiệm hình sự về tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng. Hình phạt cao nhất con chị có thể phải chịu là 1 năm tù.

Khuyến nghị:
  1. Để có ý kiến tư vấn chính xác và cụ thể hơn, Quý vị vui lòng liên hệ với các Luật sư chuyên gia của Công ty Luật TNHH Everest qua Tổng đài tư vấn pháp luật 1900 6198, hoặc E-mail: [email protected].
  2. Nội dung bài tư vấn pháp luật hình sự mà Công ty Luật TNHH Everest cung cấp, Quý vị chỉ nên xem như nguồn tài liệu tham khảo.
  3. Tại thời điểm quý Vị đọc bài viết này, các điều luật chúng tôi viện dẫn có thể đã hết hiệu lực, hoặc đã được sửa đổi, bổ sung; các thông tin trong tình huống là cá biệt. Do đó, chúng tôi không đảm bảo những thông tin này có thể áp dụng cho mọi trường hợp, mọi đối tượng, ở mọi thời điểm.