Người nào đánh bạc trái phép dưới bất kỳ hình thức nào được thua bằng tiền hay hiện vật trị giá từ 5.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng hoặc dưới 5.000.000 đồng, đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi này hoặc....
So sánh tội đánh bạc được quy định giữa Bộ luật Hình sự năm 1999 sửa đổi, bổ sung năm 2009 (sau đây gọi là "Bộ luật Hình sự năm 2009") và Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017 (sau đây gọi là "Bộ luật Hình sự năm 2015") có thể thấy rằng tội đánh bạc được quy định trong bộ luật Hình sự năm 2015 đã nới rộng hơn mức khởi điểm để truy cứu trách nhiệm hình sự.
Căn cứ pháp lý của tội đánh bạc
Tội đánh bạc theo quy định trong Bộ Luật Hình sự năm 1999 như sau: "1. Người nào đánh bạc trái phép dưới bất kỳ hình thức nào được thua bằng tiền hay hiện vật có giá trị từ hai triệu đồng đến dưới năm mươi triệu đồng hoặc dưới hai triệu đồng nhưng đã bị kết án về tội này hoặc tội quy định tại Điều 249 của Bộ luật này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm, thì bị phạt tiền từ năm triệu đồng đến năm mươi triệu đồng, cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ ba tháng đến ba năm.2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ hai năm đến bảy năm: (a) Có tính chất chuyên nghiệp; (b) Tiền hoặc hiện vật dùng đánh bạc có giá trị từ năm mươi triệu đồng trở lên; (c) Tái phạm nguy hiểm.3. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ ba triệu đồng đến ba mươi triệu đồng."(Điều 248).
Điều 321 Bộ luật Hình sự năm 2015 quy định về tội đánh bạc như sau: "1. Người nào đánh bạc trái phép dưới bất kỳ hình thức nào được thua bằng tiền hay hiện vật trị giá từ 5.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng hoặc dưới 5.000.000 đồng nhưng đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi này hoặc hành vi quy định tại Điều 322 của Bộ luật này hoặc đã bị kết án về tội này hoặc tội quy định tại Điều 322 của Bộ luật này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm, thì bị phạt tiền từ 20.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng, phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm.2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 03 năm đến 07 năm: (a) Có tính chất chuyên nghiệp; (b) Tiền hoặc hiện vật dùng đánh bạc trị giá 50.000.000 đồng trở lên; (c) Sử dụng mạng internet, mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử để phạm tội; (d) Tái phạm nguy hiểm.3- Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng."
Điểm mới của tội đánh bạc trong Bộ luật Hình sự năm 2015
So với quy định tại Điều 248 Bộ luật Hình sự năm 1999 thì Điều 321 Bộ luật Hình sự năm 2015 đã có những điểm mới như sau:(i) Khoản 1 Điều 321 đã nâng mức khởi điểm để truy cứu trách nhiệm hình sự về tội đánh bạc từ 2.000.000 đồng lên 5.000.000 đồng đối với người phạm tội lần đầu.Đồng thời, thay vì quy định việc có thể lựa chọn giữa hai hình phạt chính là phạt tiền và phạt tù như quy định tại Điều 248 Bộ luật Hình sự năm 1999 thì Điều 321 Bộ luật Hình sự năm 2015 đã bỏ đi hình phạt tiền. Theo đó, người nào có hành vi đánh bạc trái phép dưới bất kỳ hình thức nào được thua bằng tiền hay hiện vật trị giá từ 5.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng, hoặc dưới 5.000.000 đồng mà đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi này, hoặc hành vi tổ chức đánh bạc, gá bạc, hoặc đã bị kết án về tội này hoặc tội đánh bạc, gá bạc, chưa được xoá án tích mà còn vi phạm thì sẽ bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm. Bên cạnh đó, khung hình phạt tù đối với người phạm tội này cũng đã tăng từ 03 tháng đến 03 năm lên 06 tháng đến 03 năm. Như vậy, mức cải tạo không giam giữ giữa quy định của Bộ luật Hình sự năm 1999 và Bộ luật Hình sự năm 2015 đối với người vi phạm lần đầu vẫn là 03 năm; nhưng mức khởi điểm của hình phạt tù đã tăng từ 03 tháng đến 06 tháng.(ii) Khoản 2 Điều 248 Bộ luật Hình sự năm 2015 cũng đã nâng mức khởi điểm của khung hình phạt tù từ 02 năm lên 03 năm; và vẫn giữ nguyên mức phạt tù cao nhất trong khung hình phạt là 07 năm.(iii) Hình phạt bổ sung được quy định tại khoản 3 đều là hình phạt tiền, tuy nhiên, quy định tại Điều 321 đã tăng mức hình phạt tiền từ "3.000.000 đồng đến 30.000.000 đồng” lên “10.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng”.Như vậy, tổng quan so sánh tội đánh bạc được quy định giữa Bộ luật Hình sự năm 1999 và Bộ luật Hình sự năm 2015 có thể thấy rằng tội đánh bạc được quy định trong bộ luật Hình sự năm 2015 đã nới rộng hơn mức khởi điểm để truy cứu trách nhiệm hình sự của tội đánh bạc từ 2.000.000 đồng lên 5.000.000 đồng đối với người phạm tội lần đầu. Tuy nhiên, khi người phạm tội đánh bạc bị bắt thì mức phạt đối với người này lại tăng nặng hơn.
Vì sao các tổ chức, cá nhân nên sử dụng dịch vụ pháp lý trong trường hợp có liên quan tới tội phạm đánh bạc:
Oan, sai, tình trạng bức cung, nhục hình trong vụ án hình sự tại Việt Nam hiện nay không còn hiếm. Tình trạng này không chỉ trực tiếp xâm phạm quyền tự do, danh dự, nhân phẩm... mà trong nhiều trường hợp, còn tước đoạt cả quyền được sống của con người;
Ngược lại, Việt Nam không hiếm trường hợp lại diễn ra tình trạng "hành chính hóa" hoặc "dân sự hóa" hành vi vi phạm pháp luật hình sự (tội phạm). Tố giác, tố cáo, tin báo tội phạm của tổ chức, doanh nghiệp, công dân không được giải quyết đúng pháp luật, dẫn đến việc bỏ lọt tội phạm, không truy tố hoặc truy tố không đúng hành vi phạm tội, xâm phạm đến quyền và lợi ích hợp pháp của người bị hại, các đương sự;
Sự tham gia của luật sư trong lĩnh vực hình sự đặc biệt là với vai trò là người bào chữa cho bị can, bị cáo, bảo vệ quyền lợi hợp pháp cho người tố giác (tố cáo), người bị hại, nguyên đơn, bị đơn dân sự trong vụ án hình sự là một trong những biện pháp hữu hiệu nhất để giảm thiểu và ngăn chặn tình trạng trên. Hoạt động bào chữa cho bị can, bị cáo, bảo vệ quyền lợi hợp pháp cho người bị hại không chỉ là hoạt động nghề nghiệp mà còn là trách nhiệm xã hội của người luật sư trong việc duy trì công lý.
Bài viết thực hiện bởi: Luật sư Nguyễn Thị Yến - Trưởng chi nhánh Quảng Ninh của Công ty Luật TNHH Everest.
Khuyến nghị của Công ty Luật TNHH Everest:
- Bài viết trong lĩnh vực hình sự (nêu trên) được luật sư, chuyên gia của Công ty Luật TNHH Everest thực hiện nhằm mục đích nghiên cứu khoa học hoặc phổ biến kiến thức pháp luật, hoàn toàn không nhằm mục đích thương mại.
- Bài viết có sử dụng những kiến thức hoặc ý kiến của các luật sư, chuyên gia được trích dẫn từ nguồn đáng tin cậy. Tại thời điểm trích dẫn những nội dung này, chúng tôi đồng ý với quan điểm của tác giả. Tuy nhiên, quý Vị chỉ nên coi đây là những thông tin tham khảo, bởi nó có thể chỉ là quan điểm cá nhân người viết.
- Trường hợp cần giải đáp thắc mắc về vấn đề có liên quan, hoặc cần ý kiến pháp lý cho vụ việc cụ thể, Quý vị vui lòng liên hệ với chuyên gia, luật sư của Công ty Luật TNHH Everest qua Tổng đài tư vấn pháp luật 1900 6198, E-mail: [email protected].
Bình luận