Hành vi không truy cứu trách nhiệm hình sự người có tội quy định tại Bộ luật hình sự năm 2015

Hành vi này có khả năng làm cho các hoạt động tố tụng và thi hành án trở nên không bình thường, không đúng đắn

Tội phạm quy định tại điều này xâm phạm đến tính đúng đắn của hoạt động tư pháp theo quy định của pháp luật hiện hành

 Luật sư tư vấn pháp luật qua tổng đài (24/7) gọi: 1900 6198
Luật sư tư vấn pháp luật qua tổng đài (24/7) gọi: 1900 6198

Thứ nhất, về quy định tại điều 369 Bộ luật hình sự năm 2015

“Điều 369. Tội không truy cứu trách nhiệm hình sự người có tội

1. Người nào có thẩm quyền mà không truy cứu trách nhiệm hình sự người mà mình biết rõ là có tội, thì bị phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm.

(…)

4. Người phạm tội còn bị cấm đảm nhiệm chức vụ nhất định từ 01 năm đến 05 năm.

Thứ hai, bình luận về điều 369 Bộ luật hình sự năm 2015

(i) Khái niệm

Không truy cứu trách nhiệm hình sự người có tội là hành vi của người có thẩm quyền trong hoạt động tố tụng không khởi tố, không truy tố người mà mình biết rõ là có tội.

(ii) Các dấu hiệu thuộc về chủ thể của tội phạm

Chủ thể của tội phạm này tương tự như chủ thể của tội truy cứu trách nhiệm hình sự người không có tội bao gồm: Thủ trưởng, Phó thủ trưởng Cơ quan điều tra; Viện trưởng, Phó viện trưởng Viện kiểm sát; Điều tra viên, Kiểm sát viên.

Ngoài những người trên, đối với người phạm tội ít nghiêm trọng còn có thể còn có người có thẩm quyền của Bộ đội biên phòng, Hải quan, Kiểm lâm, lực lượng Cảnh sát biển, Kiểm ngư và cơ quan khác của Công an nhân dân, quân đội nhân dân được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra quy định tại Điều 164 Bộ luật tố tụng hình sự.

Cũng như đối với chủ thể của tội truy cứu trách nhiệm hình sự người không có tội, không bao gồm Thẩm phán hoặc Hội thẩm nhân dân.

Trường hợp, Điều tra viên, Kiểm sát viên cố tình không truy cứu trách nhiệm hình sự người có tội theo mệnh lệnh của Thủ trưởng, Phó Thủ trưởng cơ quan điều tra, Viện trưởng, Phó Viện trường Viện kiểm sát, mặc dù trước đó đã báo cáo, đề xuất ý kiến “phải khởi tố, phải kết luận điều tra, phải truy tố” nhưng không có ý kiến phản bác, bảo lưu hoặc báo cáo lên cấp trên mà vẫn đồng tình với quyết định của cấp trên thì vẫn bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội “ không truy cứu trách nhiệm hình sự người có tội”. Tuy nhiên, khi xem xét để truy cứu trách nhiệm hình sự đối với nhừng người này cũng cần xem xét đến mối quan hệ giữa họ với Thủ trưởng, Phó thủ trưởng Cơ quan điều tra; Viện trưởng, Phó viện trưởng Viện kiểm sát. Nếu đó là mối quan hệ quá lệ thuộc, mà Điều tra viên hoặc Kiểm sát viên không còn cách nào khác buộc phải chấp hành thì được coi là phạm tội do bị ép buộc, cường bức và được xem xét nhẹ miễn trách nhiệm hình sự hoặc miễn hình phạt.

Trường hợp người có thẩm quyền như: Thủ trưởng, Phó Thủ trưởng cơ quan điều tra, Viện trưởng, Phó Viện trưởng Viện kiểm sát, Kiểm sát viên quyết định không khởi tố vụ án, không khởi tố bị can, không phê chuẩn quyết định khởi tố bị can, không ký bản kết luận điều tra, không ra bản cáo trạng truy cứu trách nhiệm hình sự người có tội nhưng không biết rõ người mà mình không truy cứu trách nhiệm hình sự là có tội mà chỉ có Điều tra viên, Kiểm sát viên biết rõ là có tội thì Thủ trưởng, Phó Thủ trưởng cơ quan điều tra, Viện trưởng, Phó Viện trưởng Viện kiểm sát, Kiểm sát viên không phải là chủ thể của tội phạm này, mà tùy trường họp cụ thể họ có thể bị xử lý kỷ luật hoặc bị truy cửu trách nhiệm hình sự về tội thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng quy định tại Điều 360 Bộ luật hình sự.

(iii)Các dấu hiệu thuộc về khách thể của tội phạm

Tội không truy cứu trách nhiệm hình sự người có tội là tội phạm không chỉ xâm phạm đến uy tín của cơ quan tiến hành tố tụng, mà còn xâm phạm đến nguyên tắc xử lý “mọi hành vi phạm tội phải bị phát hiện kịp thời và xử lý nghiêm minh”. Không truy cứu trách nhiệm hình sự người có tội là việc cố ý bỏ lọt tội phạm và do đó còn xâm phạm đến các lợi ích của Nhà nước, xã hội và của công dân. Tuy nhiên, về chính sách hình sự, hành vi bỏ lọt tội phạm không bị coi là nguy hiểm như hành vi truy cứu trách nhiệm hình sự người không có tội. Điều này thể hiện ở mức hình phạt quy định trong khung hình phạt của điều luật.

(iv) Mặt chủ quan của tội phạm:

Lỗi cố ý trực tiếp

(v) mặt khách quan của tội phạm:

Hành vi xâm phạm đến hoạt động tố tụng và gây hậu quả là bỏ sót tội phạm

Khuyến nghị của công ty Luật Everest:

  1. Bài viết được luật sư, chuyên gia của Công ty Luật TNHH Everest thực hiện nhằm mục đích nghiên cứu khoa học hoặc phổ biến kiến thức pháp luật, hoàn toàn không nhằm mục đích thương mại.
  2. Bài viết có sử dụng những kiến thức hoặc ý kiến của các chuyên gia được trích dẫn từ nguồn đáng tin cậy. Tại thời điểm trích dẫn những nội dung này, chúng tôi đồng ý với quan điểm của tác giả. Tuy nhiên, quý vị đây chỉ nên coi đây là những thông tin tham khảo, bởi nó có thể chỉ là quan điểm cá nhân người viết.
  3. Trường hợp cần giải đáp thắc mắc về vấn đề có liên quan, hoặc cần ý kiến pháp lý cho vụ việc cụ thể, Quý vị vui lòng liên hệ với chuyên gia, luật sư của Công ty Luật TNHH Everest qua Tổng đài tư vấn pháp luật 19006198, E-mail: [email protected], [email protected].