Hiệu lực của Bộ luật Tố tụng hình sự

Hiệu lực của Bộ luật Tố tụng hình sự gồm có hiệu lực theo không gian và hiệu lực theo thời gian.

Bộ luật Tố tụng hình sự hiện hành là Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 có hiệu lực pháp lý từ ngày 01/01/2018.

Luật sư tư vấn pháp luật hình sự - Tổng đài tư vấn (24/7): 1900 6198
Luật sư tư vấn pháp luật hình sự - Tổng đài tư vấn (24/7): 1900 6198

Hiệu lực theo không gian

Hiệu lực theo không gian là hiệu lực được xác định trên phạm vi lãnh thổ nhất định.

Căn cứ pháp lý theo điều 3 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 quy định:

“Bộ luật Tố tụng hình sự có hiệu lực đối với mọi hoạt động tố tụng hình sự trên lãnh thổ nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam”.

Do vậy, mọi hoạt động khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án hình sự được tiến hành trên lãnh thổ Việt Nam đều phải tuân thủ những quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự Việt Nam.

Theo quy định của Hiến pháp, lãnh thổ bao gồm đất liền, hải đảo, vùng biển và vùng trời. Những tội phạm xảy ra trên tàu bay hoặc tàu biển của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam đang hoạt động ngoài không phận hoặc lãnh hải Việt Nam là phạm tội trên lãnh thổ Việt Nam.

Trường hợp bị cáo phạm tội ở nước ngoài, nếu xét xử ở Việt Nam cũng phải được tiến hành theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự Việt Nam.

Về nguyên tắc, hoạt động tố tụng đối với hành vi phạm tội trên lãnh thổ Việt Nam thuộc thẩm quyền xét xử của toà án Việt Nam - nơi tội phạm được thực hiện hoặc nơi kết thúc điều tra.

Hoạt động tố tụng hình sự đối với người nước ngoài phạm tội trên lãnh thổ Việt Nam được tiến hành theo quy định của điều ước quốc tế mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên hoặc theo nguyên tắc có đi, có lại.

Luật sư tư vấn pháp luật hình sự - Tổng đài tư vấn (24/7): 1900 6198
Luật sư tư vấn pháp luật hình sự - Tổng đài tư vấn (24/7): 1900 6198

Hiệu lực theo thời gian

Hiệu lực theo thời gian là giới hạn xác định thời điểm phát sinh và thời điểm chấm dứt hiệu lực của văn bản quy phạm pháp luật, là giá trị tác động của văn bản quy phạm pháp luật đến các quan hệ xã hội phát sinh từ thời điểm bắt đầu có hiệu lực pháp luật đến thời điểm chấm dứt.

Theo Bộ luật Tố tụng hình sự (sau đây gọi tắt là BLTTHS) năm 2015 thì:

Đối với những vụ án do cơ quan điều ưa, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều ưa, viện kiểm sát, toà án đang thụ lí, giải quyết theo thẩm quyền quy định tại Bộ luật Tố tụng hình sự số 19/2003/QH11 nhưng đến ngày 01/7/2016 chưa kết thúc thì thẩm quyền giải quyết tiếp tục được áp dụng theo quy định của BLTTHS năm 2003 cho đến khi kết thúc vụ án, còn các vấn đề khác được thực hiện theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015;

Đối với những tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố đang trong quá trình kiểm tra, xác minh nhưng đến ngày 01/7/2016 chưa kết thúc thì thời hạn giải quyết được tính theo thời hạn của BLTTHS năm 2015;

Đối với những bị can, bị cáo đang bị tạm giam theo quy định của BLTTHS năm 2003 nhưng đến ngày 01/7/2016 không được tạm giam theo quy định của BLTTHS năm 2015 hoặc thời hạn tạm giam vượt quá thời hạn theo quy định của BLTTHS năm 2015 thì viện kiểm sát, tòa án quyết định huỷ bỏ biện pháp tạm giam đang áp dụng hoặc thay thế bằng biện pháp ngăn chặn khác theo quy định của BLTTHS năm 2015;

Đối với những vụ án hình sự do cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra đang tiến hành điều tra nhưng đến ngày 01/7/2016 chưa kết thúc điều tra thì thời hạn điều tra được thực hiện theo quy định của BLTTHS năm 2015;

Đối với những vụ án hình sự đang trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử theo thủ tục rút gọn nhưng đến ngày 01/7/2016 chưa kết thúc điều ưa, chưa quyết định việc truy tố hoặc chưa đưa vụ án ra xét xử sơ thẩm thì thời hạn điều tra, truy tố, xét xử được tính theo thời hạn của BLTTHS năm 2015.

Đối với những bản án sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật bị kháng cáo, kháng nghị trước ngày 01/7/2016 và thuộc trường họp quy định tại khoản 2 Điều 456 của BLTTHS năm 2015 nhưng kể từ ngày 01/7/2016 mới xét xử thì áp dụng thủ tục rút gọn theo quyđịnh của BLTTHS năm 2015 để giải quyết;

Đối với những vụ án hình sự đã xét xử sơ thẩm theo quy định tại BLTTHS năm 2003 mà có kháng cáo, kháng nghị trước ngày 01/7/2016 nhưng kể từ ngày 01/7/2016 mới xét xử phúc thẩm thì áp dụng BLTTHS năm 2015 để giải quyết.

Đối với bản án, quyết định của tòa án đã có hiệu lực pháp luật theo quy định tại BLTTHS năm 2003 mà có kháng nghị giám đốc thẩm, tái thẩm trước ngày 01/7/2016 nhưng chưa giải quyết hoặc kể từ ngày 01/7/2016 mới có kháng nghị giám đốc thẩm, tái thẩm thì áp dụng BLTTHS năm 2015 để giải quyết;

Đối với những trường hợp đã được cấp giấy chứng nhận người bào chữa theo quy định của BLTTHS năm 2003 thì người bào chữa tiếp tục sử dụng cho đến khi kết thúc việc bào chữa;

Tòa án tiếp tục áp dụng các quy định pháp luật hiện hành về án phí, lệ phí toà án và các chi phí tố tụng khác cho đến khi có quy định mới của cơ quan có thẩm quyền.

Khuyến nghị của Công ty Luật TNHH Everest:

  1. Bài viết được luật sư, chuyên gia của Công ty Luật TNHH Everest thực hiện nhằm mục đích nghiên cứu khoa học hoặc phổ biến kiến thức pháp luật, hoàn toàn không nhằm mục đích thương mại.
  2. Bài viết có sử dụng những kiến thức hoặc ý kiến của các chuyên gia được trích dẫn từ nguồn đáng tin cậy. Tại thời điểm trích dẫn những nội dung này, chúng tôi đồng ý với quan điểm của tác giả. Tuy nhiên, quý Vị đây chỉ nên coi đây là những thông tin tham khảo, bởi nó có thể chỉ là quan điểm cá nhân người viết.
  3. Trường hợp cần giải đáp thắc mắc về vấn đề có liên quan, hoặc cần ý kiến pháp lý cho vụ việc cụ thể, Quý vị vui lòng liên hệ với chuyên gia, luật sư của Công ty Luật TNHH Everest qua Tổng đài tư vấn pháp luật 19006198, E-mail: [email protected].