Kết quả thực hiện ủy thác tư pháp và hợp tác quốc tế khác, tài liệu, đồ vật khác trong vụ án được quy định tại Điều 103, Điều 104 Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015
Trong quá trình tiến hành tố tụng, cơ quan có thẩm quyền của Việt Nam và cơ quan có thẩm quyền của nước ngoài có thể thực hiện việc ủy thác tư pháp để yêu cầu về việc thực hiện một hoặc một số hoạt động tương trợ tư pháp theo quy định của pháp luật nước có liên quan hoặc điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên. Kết quả thực hiện ủy thác tư pháp và hợp tác quốc tế khác, tài liệu đồ vật khác trong vụ án là nguồn chứng cứ quan trọng.
Căn cư pháp lý
“Điều 103. Kết quả thực hiện ủy thác tư pháp và hợp tác quốc tế khác
Kết quả thực hiện ủy thác tư pháp và hợp tác quốc tế khác do cơ quan có thẩm quyền của nước ngoài cung cấp có thể được coi là chứng cứ nếu phù hợp với chứng cứ khác của vụ án.
Điều 104. Các tài liệu, đồ vật khác trong vụ án
Những tình tiết liên quan đến vụ án ghi trong tài liệu, đồ vật do cơ quan, tổ chức, cá nhân cung cấp có thể được coi là chứng cứ. Trường hợp tài liệu, đồ vật này có đặc điểm quy định tại Điều 89 của Bộ luật này thì được coi là vật chứng."
Khái niệm về ủy thác tư pháp
Ủy thác tư pháp là yêu cầu bằng văn bản của cơ quan có thẩm quyền của Việt Nam hoặc cơ quan có thẩm quyền của nước ngoài về việc thực hiện một hoặc một số hoạt động tương trợ tư pháp theo quy định của pháp luật nước có liên quan hoặc điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên (Điều 5 Luật Tương trợ tư pháp năm 2007). Đồng thời Luật Tương trợ tư pháp cũng quy định rõ về thẩm quyền, trình tự, thủ tục thực hiện tương trợ tư pháp về dân sự, hình sự, dẫn độ và chuyển giao người đang chấp hành hình phạt tù giữa Việt Nam với nước ngoài; trách nhiệm của các cơ quan nhà nước Việt Nam trong tương trợ tư pháp.
Giá trị của kết quả thực hiện ủy thác tư pháp và hợp tác quốc tế khác
Kết quả thực hiện ủy thác tư pháp và hợp tác quốc tế khác do cơ quan có thẩm quyền của nước ngoài cung cấp có thể được coi là chứng cứ nếu phù hợp với chứng cứ khác của vụ án.
Ngoài việc ủy thác tư pháp, cơ quan có thẩm quyền của Việt Nam và cơ quan có thẩm quyền của nước ngoài có thể thực hiện hoạt động hợp tác quốc tế khác bằng sự phối hợp, hỗ trợ lẫn nhau để thực hiện hoạt động phục vụ yêu cầu điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án hình sự.
Thực tiễn cho thấy rất nhiều vụ án về tội phạm xuyên quốc gia, tội phạm có tổ chức thì kết quà thực hiện ủy thác tư pháp là nguồn chứng cứ quan trọng để giải quyết vụ án, do đó Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015 quy định quy định rõ tại Điều 103: “Kết quả thực hiện ủy thác tư pháp và hợp tác quốc tế khác do cơ quan có thẩm quyền của nước ngoài cung cấp có thể được coi là chứng cứ nếu phù hợp với chứng cứ khác của vụ án”. Đây là một nguồn chứng cứ mới được bổ sung vào Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015 so với Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2003.
Khái niệm tài liệu, đồ vật khác trong vụ án và các loại tài liệu, đồ vật
Các tài liệu, đồ vật khác trong vụ án là những văn bản pháp lý, vật chứa đựng những thông tin về những tình tiết có liên quan đến vụ án hình sự do cơ quan, tổ chức, cá nhân cung cấp cho cơ quan tiến hành tố tụng. Các tài liệu có thể là sổ sách, hóa đơn, chứng từ, những số liệu, báo cáo có liên quan đến vụ án hình sự... Các đồ vật khác có thể là các mẫu vật cùng loại với công cụ, phương tiện phạm tội, đối tượng tác động của tội phạm, những đồ vật mà người phạm tội sử dụng trong công tác có liên quan đến vụ án...
Giá trị của tài liêu, đồ vật khác trong vụ án
Những tình tiết có liên quan đến vụ án được ghi nhận trong các tài liệu, cũng như các đồ vật này có thể được coi là chứng cứ.
Tài liệu, đồ vật do cơ quan có thẩm quyền của nước ngoài thu thập theo ủy thác tư pháp của cơ quan có thẩm quyền của Việt Nam hoặc tài liệu, đồ vật do cơ quan có thẩm quyền của nước ngoài gửi đến Việt Nam để ủy thác truy cứu trách nhiệm hình sự nếu có giá trị chứng minh tội phạm và người phạm tội hoặc có ý nghĩa trong việc giải quyết vụ án thì có thể được coi là vật chứng của vụ án.
Trong trường hợp các tài liệu, đồ vật khác trong vụ án do cơ quan, tổ chức, cá nhân cung cấp có những dấu hiệu quy định tại Điều 89 Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015 thì được coi là vật chứng.
Khuyến nghị:
- Bài viết được luật sư, chuyên gia của Công ty Luật TNHH Everest thực hiện nhằm mục đích nghiên cứu khoa học hoặc phổ biến kiến thức pháp luật, hoàn toàn không nhằm mục đích thương mại.
- Bài viết có sử dụng những kiến thức hoặc ý kiến của các chuyên gia được trích dẫn từ nguồn đáng tin cậy. Tại thời điểm trích dẫn những nội dung này, chúng tôi đồng ý với quan điểm của tác giả. Tuy nhiên, quý Vị đây chỉ nên coi đây là những thông tin tham khảo, bởi nó có thể chỉ là quan điểm cá nhân người viết.
- Trường hợp cần giải đáp thắc mắc về vấn đề có liên quan, hoặc cần ý kiến pháp lý cho vụ việc cụ thể, Quý vị vui lòng liên hệ với chuyên gia, luật sư của Công ty Luật TNHH Everest qua Tổng đài tư vấn pháp luật 19006198, E-mail: [email protected], [email protected].
Bình luận