Lời nhận tội của bị can, bị cáo chỉ có thể được coi là chứng cứ buộc tội nếu lời khai đó phù hợp với chứng cứ khác của vụ án
Bị can là người hoặc pháp nhân bị khởi tố về hình sự. Bị cáo là người hoặc pháp nhân dã bị Tòa án quyết định đưa ra xét xử. Bị can, bị cáo là những người bị buộc tội. Khi tham gia tố tụng họ trình bày những tình tiết của vụ án liên quan đến việc phạm tội của họ và việc phạm tội của những đồng phạm khác. Họ có quyền trình bày lời khai nhận tội hoặc lời khai chi rằng mình không phạm tội, hoặc phạm tội không phải tội đã bị khởi tố, truy tố, xét xử.
Căn cứ pháp lý về lời khai của bị can, bị cáo
“Điều 98. Lời khai của bị can, bị cáo
1. Bị can, bị cáo trình bày những tình tiết của vụ án.
2. Lời nhận tội của bị can, bị cáo chỉ có thể được coi là chứng cứ nếu phù hợp với những chứng cứ khác của vụ án.
Không được dùng lời nhận tội của bị can, bị cáo làm chứng cứ duy nhất để buộc tội, kết tội.”
Khái niệm về lời khai của bị can, bị cáo
Lời khai của của bị can, bị cáo là sự trình bày bằng miệng của của bị can, bị cáo về những vấn đề phải chứng minh trong vụ án hình sự, cũng như các tình tiết khác cần thiết cho việc giải quyết đúng đắn vụ án, được thực hiện trước các cơ quan tiến hành tố tụng, theo thủ tục do pháp luật tố tụng hình sự quy định.
Lời khai của của bị can, bị cáo là nguồn chứng củ mang tính chất đặc biệt, được quy định bởi địa vị pháp lý của họ trong tố tụng hình sự: i) Bị can, bị cáo là người biết rõ hơn ai hết mình cố thực hiện tội phạm hay không và nếu cố thực hiện tội phạm, biết rõ về động cơ, mục đích thực hiện tội phạm và những tình tiết khác có liên quan; ii) số phận của bị can, bị cáo phụ thuộc trực tiếp vào kết quả giải quyết vụ án, bởi lẽ, trong trường hợp bị tòa án tuyên có tội, họ có thể bị áp dụng hình phạt hoặc các biện pháp tư pháp hình sự khác.
Quy định về lời khai của bị can, bị cáo
Lời khai của bị can, bị cáo đề cập những vấn đề phải chứng minh trong vụ án hình sự, cũng như các tình tiết khác cần thiết cho việc giải quyết đúng đắn vụ án, cho nên đây là nguồn chứng cứ quan trọng giúp các cơ quan tiến hành tố tụng trong việc làm sáng tỏ vụ án.
Trên thực tế, có những vụ án, các bị can, bị cáo thông đồng khai ra những thông tin không chính xác để đánh lừa hướng điều tra của các cơ quan tiến hành tố tụng. Trong những trường hợp như vậy, thông tin về sự nhận tội của bị can, bị cáo dù cố phù hợp với các thông tin do các bị can, bị cáo khác đưa ra cũng không thể coi là chứng cứ. Đây là vướng mắc về mặt nhận thức đã xảy ra ở nhiều địa phương. Để khắc phục tình trạng này, cần phải coi chứng cứ về sự nhận tội của bị can, bị cáo cũng là một trong những chứng cứ khác của vụ án và đều cần được kiểm tra, đánh giá như đối với các chứng cứ khác.
Quyền đưa ra ý kiến của bị can, bị cáo
Sau khi đưa ra những chứng cứ, tài liệu, đồ vật, yêu cầu, để có thể tự gỡ tội cho mình hoặc dùng làm tình tiết giảm nhẹ, bị can có quyền trình bày ý kiến của mình về những vật đó, và nếu cần thiết có thể yêu cầu người có thẩm quyền tiến hành tố tụng kiểm tra, đánh giá về tính xác thực, đúng đắn của những vật này.
Quyền được “Trình bày ý kiến về chứng cứ, tài liệu, đồ vật liên quan và yêu cầu người có thẩm quyền tiến hành tố tụng kiểm tra, đánh giá”. Thường thì những chứng cứ, tài liệu, đồ vật này có ý nghĩa gỡ tội cho bị cáo, chứng minh bị cáo không phạm tội hoặc chứng minh những tình tiết giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo. Do vậy, Hội đồng xét xử khi nhận được các chứng cứ, tài liệu, đồ vật do bị cáo cung cấp thì phải tiến hành kiểm tra, đánh giá khách quan để xác định các chứng cứ, tài liệu, đồ vật đó có phải là chứng cứ trong vụ án hay không và giá trị của nó trong việc xác định sự thật của vụ án.
Khuyến nghị:
- Bài viết được luật sư, chuyên gia của Công ty Luật TNHH Everest thực hiện nhằm mục đích nghiên cứu khoa học hoặc phổ biến kiến thức pháp luật, hoàn toàn không nhằm mục đích thương mại.
- Bài viết có sử dụng những kiến thức hoặc ý kiến của các chuyên gia được trích dẫn từ nguồn đáng tin cậy. Tại thời điểm trích dẫn những nội dung này, chúng tôi đồng ý với quan điểm của tác giả. Tuy nhiên, quý Vị đây chỉ nên coi đây là những thông tin tham khảo, bởi nó có thể chỉ là quan điểm cá nhân người viết.
- Trường hợp cần giải đáp thắc mắc về vấn đề có liên quan, hoặc cần ý kiến pháp lý cho vụ việc cụ thể, Quý vị vui lòng liên hệ với chuyên gia, luật sư của Công ty Luật TNHH Everest qua Tổng đài tư vấn pháp luật 19006198, E-mail: [email protected], [email protected].
Bình luận