Người có quyền kháng cáo được quy định tại Điều 331 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015
Trong vụ án hình sự có sự tham gia của rất nhiều loại người khác nhau, sự tham gia của một số người này có thể giúp cơ quan tiến hành tố tụng giải quyết vụ án một cách chính xác, khách quan còn một số người khác lại tham gia vì quyền và lợi ích hoặc có nghĩa vụ liên quan tới vụ án. Để tránh những thiệt hại có thể có cho những người này khi tòa án cấp sơ thẩm ra bản án hoặc quyết định, pháp luật tố tụng hình sự quy định bị cáo, người bị hại, người bào chữa, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan tới vụ án và những người đại diện hợp pháp của họ có quyền kháng cáo.
Căn cứ pháp lý về người có quyền kháng cáo
“Điều 331. Người có
quyền kháng cáo
1. Bị cáo, bị hại, người đại diện của họ có quyền
kháng cáo bản án hoặc quyết đinh sơ thẩm.
2. Người bào chữa có quyền kháng cáo để bảo vệ lợi
ích của người dưới 18 tuổi, người có nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất mà
mình bào chữa.
3. Nguyên đơn dân sự, bị đơn
dân sự, người đại diện của họ có quyền kháng cáo
phần bản án hoặc quyết định có liên quan đến việc bồi
thường thiệt hại.
...
6. Người được Tòa án tuyên không có tội có quyền
kháng cáo về các căn cứ mà bản án sơ thẩm đã xác định là họ không có tội.”
Những người có quyền kháng cáo
Trong vụ án hình sự có sự tham gia của rất nhiều loại người khác nhau, sự tham gia của một số người này có thể giúp cơ quan tiến hành tố tụng giải quyết vụ án một cách chính xác, khách quan còn một số người khác lại tham gia vì quyền và lợi ích hoặc có nghĩa vụ liên quan tới vụ án. Để tránh những thiệt hại có thể có cho những người này khi tòa án cấp sơ thẩm ra bản án hoặc quyết định, pháp luật tố tụng hình sự quy định bị cáo, người bị hại, người bào chữa, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan tới vụ án và những người đại diện hợp pháp của họ có quyền kháng cáo.
Các trường hợp kháng cáo
Bị cáo có quyền kháng cáo đối với toàn bộ nội dung bản án của cấp sơ thẩm hoặc một phần trong bàn án đó. Ví dụ, bị cáo có quyền kháng cáo kêu oan, kháng cáo đối với hình phạt hoặc mức bồi thường dân sự mà bị cáo cho là quá nặng. Ngoài ra, bị cáo cũng có quyền kháng cáo đối với quyết định đình chỉ hoặc tạm đình chỉ vụ án của tòa án và yêu cầu tòa án nêu rõ lí do ra các quyết định đó. Bị cáo tự mình thực hiện quyền kháng cáo hoặc trong trường hợp có lí do chính đáng không thể kháng cáo thì thời hạn kháng cáo được kéo dài.
Đối với bị cáo là người chưa thành niên hoặc người có nhược điểm về thể chất hoặc tâm thần, xuất phát từ nguyên tắc nhân đạo, pháp luật tố tụng hình sự cho phép người bào chữa được quyền chủ động kháng cáo. Người bị hại trong tố tụng hình sự là người đã bị tội phạm gây ra thiệt hại về thể chất, vật chất hoặc tinh thần. Để bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của họ có quyền kháng cáo bản án sơ thẩm.
Nếu trong quá trình tố tụng hình sự có sự tham gia của luật sư với tư cách là người bảo vệ quyên lợi của người bị hại, khi có sự ủy quyền thì luật sư cũng có quyền kháng cáo. Nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người đại diện của họ có quyền kháng cáo phần bản án hoặc quyết định cố liên quan đến việc bồi thường thiệt hại.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án, người đại diện của họ có quyền kháng cáo phần bản án hoặc quyết định có liên quan đến quyền lợi, nghĩa vụ của họ.
Các chủ thể có quyền kháng cáo
Người bị hại, người đại diện hợp pháp (đại diện theo pháp luật) của người bị hại trong trường hợp người bị hại chết hoặc trong trường hợp người bị hại là người chưa thành niên, người có nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất có quyền kháng cáo toàn bộ bản án hoặc quyết định sơ thẩm theo hướng có lợi cho bị cáo hoặc theo hướng làm xấu hơn tình trạng của bị cáo. Trong trường hợp người bị hại chỉ kháng cáo một phần bản án hoặc quyết định sơ thẩm có liên quan đến việc bồi thường thiệt hại, thì họ có thể ủy quyền cho người khác. Người được ủy quyền có các quyền và nghĩa vụ như người đại diện hợp pháp của nguyên đơn dân sự.
Ngoài ra một quy định tại Điều 331 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 cũng đã quy định ở Điều 231 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003 người được Tòa án tuyên không có tội có quyền kháng cáo về các căn cứ mà bản án sơ thẩm đã xác định là họ không có tội. Ví dụ: Nguyễn Văn A không thực hiện hành vi trái pháp luật, song Tòa án cấp sơ thẩm lại nhận định Nguyễn Văn A có thực hiện hành vi trái pháp luật, nhưng chưa đến mức cấu thành tội phạm (hoặc không cần truy cứu trách nhiệm hình sự). Trong trường hợp này Nguyễn Văn A có quyền kháng cáo yêu cầu Tòa án cấp phúc thẩm sửa lại phần nhận định của bản án sơ thẩm cho đúng với sự thật khách quan của vụ án.
Khuyến nghị của Công ty Luật TNHH Everest:
- Bài viết được luật sư, chuyên gia của Công ty Luật TNHH Everest thực hiện nhằm mục đích nghiên cứu khoa học hoặc phổ biến kiến thức pháp luật, hoàn toàn không nhằm mục đích thương mại.
- Bài viết có sử dụng những kiến thức hoặc ý kiến của các chuyên gia được trích dẫn từ nguồn đáng tin cậy. Tại thời điểm trích dẫn những nội dung này, chúng tôi đồng ý với quan điểm của tác giả. Tuy nhiên, quý Vị đây chỉ nên coi đây là những thông tin tham khảo, bởi nó có thể chỉ là quan điểm cá nhân người viết.
- Trường hợp cần giải đáp thắc mắc về vấn đề có liên quan, hoặc cần ý kiến pháp lý cho vụ việc cụ thể, Quý vị vui lòng liên hệ với chuyên gia, luật sư của Công ty Luật TNHH Everest qua Tổng đài tư vấn pháp luật 19006198, E-mail: [email protected].
Bình luận