Nguyên tắc kiểm tra, giám sát trong tố tụng hình sự

Nguyên tắc kiểm tra, giám sát được quy định cụ thể tại Điều 33 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 (gọi tắt là BLTTHS năm 2015).

Trước đây, việc giám sát của các cơ quan, tổ chức, đại biểu dân cử đối với hoạt động của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã được đề cập trong đoạn 3 Điều 8 BLTTHS năm 1988. Đó là một trong những nội dung của nguyên tắc “Việc tham gia tố tụng hình sự của các tổ chức xã hội và công dân”.

Luật sư tư vấn pháp luật hình sự - Tổng đài tư vấn (24/7): 1900 6198
Luật sư tư vấn pháp luật hình sự - Tổng đài tư vấn (24/7): 1900 6198

Trong BLTTHS năm 2003, nội dung này đã được tách ra thành nguyên tắc cơ bản và được bổ sung đày đủ, rõ ràng hơn, để thực hiện nhiệm vụ trọng tâm của công tác tư pháp, theo tinh thần của Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 02/01/2002 của Bộ chính trị: “Tăng cường sự giám sát của Quốc hội, hội đồng nhân dân, của các tồ chức xã hội và của nhân dân đối với công tác tư pháp". Trong BLTTHS năm 2015, ngoài nội dung giám sát của cơ quan nhà nước, Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức thành viên của Mặt trận, đại biểu dân cử nguyên tắc này còn có thêm nội dung kiểm tra của các cơ quan, người có thấm quyền tiến hành tố tụng.

Nội dung của nguyên tắc này thể hiện ở những điểm sau:

(i) Cơ quan, người có thấm quyền tiến hành tố tụng phải thường xuyên kiểm tra việc tiến hành các hoạt động tố tụng thuộc thẩm quyền; thực hiện kiếm soát giữa các cơ quan trong việc tiếp nhận, giải quyết nguồn tin về tội phạm, khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án.

Hoạt động kiểm tra trong tố tụng hình sự là việc xem xét, nhận xét, đánh giá thực trạng tiến hành tố tụng. Kiểm soát là xem xét để phát hiện, ngăn chặn những gì trái với quy định. Hoạt động kiểm tra, kiểm soát là những hoạt động mang tính hành chính và phải được cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng thực hiện thường xuyên, liên tục để đánh giá kết quả các hoạt động tố tụng thuộc thẩm quyền của mình.

Để bảo đảm kiểm tra, kiểm soát có hiệu quả, việc kiểm tra, kiểm soát phải thực hiện theo một tiến trình qua các bước khác nhau: Cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng xuất phát từ thực tiễn tố tụng xây dựng kế hoạch kiểm tra, kiểm soát thường xuyên hoặc định kì, xác định thực trạng hoạt động tố tụng, so sánh với các quy định pháp luật để xác định mức độ sai phạm trong hoạt động tố tụng, tìm nguyên nhân và thực hiện các biện pháp cần thiết để sửa chữa sai phạm, bảo đảm hoạt động tố tụng được tiến hành đúng pháp luật.

Để thực hiện tốt việc kiểm tra, kiểm soát trong tố tụng hình sự đòi hỏi cơ quan, người có thẩm quyền phải chủ động, nghiêm túc tiến hành kiểm tra, kiểm soát thường xuyên, khi phát hiện sai phạm trong hoạt động tố tụng phải thực hiện các biện pháp khắc phục, xử lí nghiêm cá nhân vi phạm pháp luật, tránh tình bao che sai phạm.

(ii) Cơ quan nhà nước, ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên của Mặt trận, đại biểu dân cử có quyền giám sát hoạt động của cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tô tụng; giám sát việc giải quyết khiếu nại, tố cáo của cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng.

Chủ thể có quyền giám sát theo quy định này là cơ quan nhà nước, Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức thành viên của Mặt trận, đại biểu dân cử có quyền giám sát hoạt động của các cơ quan, người tiến hành tố tụng; giám sát việc giải quyết khiêu nại, tố cáo của các cơ quan, người có thẩm quyển tiến hành tố tụng. Đối tượng của việc giám sát là các cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng. Phạm vi giám sát là các họạt động của các cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng va việc giải quyết khiếu nại, tố cáo của các cơ quan, ngươi có thẩm quyền tiến hành tố tụng.

Biện pháp giám sát theo quy định của nguyên tắc này: Nếu phát hiện những hành vi trái pháp luật của cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng thì cơ quan nhà nước, đại biêu dân cử có quyền yêu cầu, Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức thành viên của Mặt trận có quyền kiến nghị cơ quan có thẩm quyền xem xét, giải quyết theo quy định của BLTTHS.

(iii) Nguyên tắc này cũng xác định trách nhiệm của cơ quan có thẩm quyền phải xem xét, giải quyết và trả lời kiến nghị, yêu cầu đó theo quy định của pháp luật. Điều 33 BLTTHS năm 2015 quy định: Nếu phát hiện hành vi trái pháp luật của cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng thì cơ quan nhà nước, đại biểu dân cử có quyền yêu cầu, ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên của Mặt trận có quyền kiến nghị với cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng xem xét, giải quyết theo quy định của Bộ luật này. Cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng phải xem xét, giải quyết và trả lời kiến nghị, yêu cầu đó theo quy định của pháp luật.

Việc giám sát áp dụng pháp luật ttong hoạt động của cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng, bảo đảm tính công khai, rõ ràng, minh bạch trong hoạt động của cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng; tăng cường trách nhiệm và tính chủ động của cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng; phát huy tinh thần làm chủ của nhân dân thông qua cơ quan nhà nước, tổ chức, đại biểu dân cử đối vói hoạt động tư pháp. Qua đó góp phần bảo đảm cho hoạt động của các cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng đúng pháp luật, tránh bỏ lọt tội phạm và làm oan người vô tội.

Để thực hiện việc giám sát có hiệu quả cần phải có những quy định rõ ràng, thống nhất, hợp lí về việc giám sát hoạt động của cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng làm cơ sở cho việc thực hiện; nâng cao trình độ hiểu biết về pháp luật và tinh thần chủ động của nhân dân và đại diện cơ quan nhà nước, tổ chức xã hội, đại biểu dân cử trong đấu tranh chống những vi phạm pháp luật của cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng.

Các cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng phải thực sự tôn ttọng những kiến nghị của cơ quan nhà nước, tổ chức xã hội, đại biểu dân cử và nghiêm túc xem xét giải quyết những kiến nghị đó.

Khuyến nghị của Công ty Luật TNHH Everest:

  1. Bài viết trong lĩnh vực hình sự (nêu trên) được luật sư, chuyên gia của Công ty Luật TNHH Everest thực hiện nhằm mục đích nghiên cứu khoa học hoặc phổ biến kiến thức pháp luật, hoàn toàn không nhằm mục đích thương mại.
  2. Bài viết có sử dụng những kiến thức hoặc ý kiến của các chuyên gia được trích dẫn từ nguồn đáng tin cậy. Tại thời điểm trích dẫn những nội dung này, chúng tôi đồng ý với quan điểm của tác giả. Tuy nhiên, quý Vị chỉ nên coi đây là những thông tin tham khảo, bởi nó có thể chỉ là quan điểm cá nhân người viết.
  3. Trường hợp cần giải đáp thắc mắc về vấn đề có liên quan, hoặc cần ý kiến pháp lý cho vụ việc cụ thể, Quý vị vui lòng liên hệ với chuyên gia, luật sư của Công ty Luật TNHH Everest qua Tổng đài tư vấn pháp luật 1900 6198, E-mail: [email protected].