Người bị buộc tội được coi là không có tội cho đến khi được chứng minh theo trình tự luật định và có bản án kết tội của toà án đã có hiệu lực pháp luật.
Toà án là cơ quan xét xử, quyết định của toà án đặc trưng ở tính dứt điểm của nó, bản án của toà án xác định một người có tội hay không có tội.
Luật sư tư vấn pháp luật hình sự - Tổng đài tư vấn (24/7): 1900 6198
Cơ sở pháp lý nguyên tắc suy đoán vô tội trong Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015
Vấn đề này được thể hiện rõ nét hơn ở khoản 4 Điều 326 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015:
Nếu có căn cứ xác định bị cáo không có tội thì hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo không có tội.
Theo quy định tại khoản 1 Điều 31 Hiến pháp năm 2013 thì: Người bị buộc tội được coi là không có tội cho đến khi được chứng minh theo trình tự luật định và có bản án kết tội của toà án đã có hiệu lực pháp luật.
Điều 14 Luật tổ chức Toà án nhân dân cũng có quy định tương tự.
Điều 13 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 quy định nguyên tắc này với nội dung sau:
“Người bị buộc tội được coi là không có tội cho đến khi được chứng minh theo trình tự, thủ tục do Bộ luật này quy định và có bản án kết tội của toà án đã có hiệu lực pháp luật. Khi không đủ và không thể làm sáng tỏ căn cứ để buộc tội, kết tội theo trình tự, thủ tục do Bộ luật này quy định thì cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng phải kết luận người bị buộc tội không có tội.”
Phân tích nguyên tắc suy đoán vô tội trong Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015
Như vậy, khi chưa được chứng minh theo trình tự, thủ tục do luật quy định, chưa có bản án kết tội của toà án đã cổ hiệu lực pháp luật thì người bị buộc tội phải được coi là người không có tội.
Do không được coi là người có tội nên các cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng không được đối xử với người bị buộc tội như người có tội, kể cả trường hợp họ bị áp dụng biện pháp ngăn chặn nghiêm khắc nhất như tạm giam.
Vì vậy, Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 quy định chế độ tạm giữ, tạm giam khác với chế độ chấp hành án phạt tù.
Pháp luật và thực tiễn tố tụng đều thừa nhận không phải mọi người bị buộc tội đều là chủ thể của tội phạm.
Tuy nhiên, khi buộc tội một người phải có căn cứ theo quy định của pháp luật.
Trong nguyên tắc suy đoán vô tội nghĩa vụ chứng minh tội phạm thuộc về cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng
Mặt khác, Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 quy định nghĩa vụ chứng minh tội phạm thuộc về cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng.
Khi chứng minh tội phạm, cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng phải xác định sự thật vụ án một cách khách quan, toàn diện và đầy đù làm rõ chứng cứ xác định có tội, chứng cứ xác định vô tội, những tình tiết tăng nặng, tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm của người bị buộc tội.
Nguyên tắc suy đoán vô tội và các giai đoạn trong tố tụng hình sự
Trong giai đoạn điều tra nếu không chứng minh được bị can đã thực hiện tội phạm mà thời hạn điều tra đã hết thì cơ quan điều tra phải ra quyết định đình chỉ điều tra vụ án.
Trong giai đoạn xét xử nếu không đủ căn cứ để xác định bị cáo có tội thì hội đồng xét xử ra bản án tuyên bố bị cáo không có tội. Thực tiễn giải quyết vụ án hình sự cũng cho thấy khuynh hướng nhìn nhận người bị buộc tội như là người có tội, dù lỗi của họ chưa được chứng minh.
Trong tâm lí học, khuynh hướng này được coi là khuynh hướng buộc tội, còn trong khoa học pháp lí thì coi đó là “suy đoán có tội”. Nguyên nhân dẫn đến tình trạng oan, sai thường xuất phát từ khuynh hướng này.
Suy đoán vô tội là một trong những nguyên tắc điển hình của tố tụng tranh tụng
Từ phân tích trên, Điều 13 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 quy định nguyên tắc này với nội dung được thể hiện cụ thể như sau:
Thứ nhất, người bị buộc tội được coi là không có tội cho đến khi tội của họ được chứng minh theo trình tự, thủ tục do Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 quy định và có bản án kết tội của toà án đã có hiệu lực pháp luật.
Thứ hai, khi không đủ và không thể làm sáng tỏ căn cứ để buộc tội, kết tội theo trình tự, thủ tục luật định thì cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng phải kết luận người bị buộc tội không có tội.
Mọi nghi ngờ trong quá trình tố tụng đều phải được giải thích theo hướng có lợi cho người bị buộc tội.
Thừa nhận nguyên tắc này trong tố tụng hình sự là biểu hiện tiến bộ, nhân đạo thể hiện sự thay đổi trong nhận thức của những người tiến hành tố tụng nói riêng và quan điểm của Nhà nước ta nói chung nhằm tôn trọng và đề cao hơn nữa quyền con người ttong tố tụng hình sự.
Khuyến nghị của Công ty Luật TNHH Everest:
- Bài viết được luật sư, chuyên gia của Công ty Luật TNHH Everest thực hiện nhằm mục đích nghiên cứu khoa học hoặc phổ biến kiến thức pháp luật, hoàn toàn không nhằm mục đích thương mại.
- Bài viết có sử dụng những kiến thức hoặc ý kiến của các chuyên gia được trích dẫn từ nguồn đáng tin cậy. Tại thời điểm trích dẫn những nội dung này, chúng tôi đồng ý với quan điểm của tác giả. Tuy nhiên, quý Vị đây chỉ nên coi đây là những thông tin tham khảo, bởi nó có thể chỉ là quan điểm cá nhân người viết.
- Trường hợp cần giải đáp thắc mắc về vấn đề có liên quan, hoặc cần ý kiến pháp lý cho vụ việc cụ thể, Quý vị vui lòng liên hệ với chuyên gia, luật sư của Công ty Luật TNHH Everest qua Tổng đài tư vấn pháp luật 19006198, E-mail: [email protected].
Bình luận