Phạm tội cướp tài sản gây hậu quả nghiêm trọng, xử lý như thế nào?

a) Nếu thuộc một trong các trường hợp sau đây là gây hậu quả nghiêm trọng: a.1) Làm chết một người; a.2) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của một đến hai người với tỷ lệ thương tật của mỗi người từ 61% trở lên; a.3) Gây thương tích hoặc ....

Hỏi: Lợi dụng đoạn đường trong xã vắng vẻ, ít người qua lại, S dùng dây thép căng ngang đường nhằm chiếm đoạt tài sản của người đi đường. Tối hôm đó, đi làm về muộn, tôi đi xe máy qua đoạn đường này vì đoạn đường này sẽ ngắn hơn, thì bị dây thép hất ngược trở lại, dẫn đến ngất xỉu. S thấy vậy liền lấy hết tài sản có giá trị trên người tôi là dây chuyền, nhẫn, đồng hồ và túi xác. Tổng tài sản trị giá 7 triệu đồng. Tôi may mắn được người đi đường đi ngang qua cứu nên không chết, tuy nhiên tôi được giám định tỷ lệ thương tật là 30%. Xe máy của tôi thì bị hư hỏng, tiền sửa chữa là 1.000.000 đồng. Đề nghị Luật sư tư vấn, có phải hành vi của S là trường hợp phạm tội cướp tài sản gây hậu quả nghiêm trọng không? Và hình phạt tù đối với S là bao nhiêu năm? (Lan Hương – Quảng Ninh)


>>>Luật sư tư vấn pháp luật qua tổng đài (24/7) gọi: 1900 6198

Luật gia Nguyễn Thị Thuỳ - Tổ tư vấn pháp luật Hình sự Công ty Luật TNHH Everest – trả lời:

Điều 133 Bộ luật Hình sự năm 1999 sửa đổi, bổ sung năm 2009 quy định về tội cướp tài sản như sau:
“1. Người nào dùng vũ lực, đe doạ dùng vũ lực ngay tức khắc hoặc có hành vi khác làm cho người bị tấn công lâm vào tình trạng không thể chống cự được nhằm chiếm đoạt tài sản, thì bị phạt tù từ ba năm đến mười năm. 2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ bảy năm đến mười lăm năm: a) Có tổ chức; b) Có tính chất chuyên nghiệp; c) Tái phạm nguy hiểm; d) Sử dụng vũ khí, phương tiện hoặc thủ đoạn nguy hiểm khác; đ) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của người khác mà tỷ lệ thương tật từ 11% đến 30%; e) Chiếm đoạt tài sản có giá trị từ năm mươi triệu đồng đến dưới hai trăm triệu đồng; g) Gây hậu quả nghiêm trọng. 3. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ mười hai năm đến hai mươi năm: a) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của người khác mà tỷ lệ thương tật từ 31% đến 60%; b) Chiếm đoạt tài sản có giá trị từ hai trăm triệu đồng đến dưới năm trăm triệu đồng; c) Gây hậu quả rất nghiêm trọng. 4. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ mười tám năm đến hai mươi năm, tù chung thân hoặc tử hình: a) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của người khác mà tỷ lệ thương tật từ 61% trở lên hoặc làm chết người; b) Chiếm đoạt tài sản có giá trị từ năm trăm triệu đồng trở lên; c) Gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng. 5. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ mười triệu đồng đến một trăm triệu đồng, tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản, phạt quản chế hoặc cấm cư trú từ một năm đến năm năm”.

Tiểu mục 3.4 Mục 3 Thông tư liên tịch số 02/2001/TTLT – TANDTC – VKSNDTC – BCA – BTP hướng dẫn về tình tiết “gây hậu quả nghiêm trọng” đối với các tội xâm phạm sở hữu như sau: “a) Nếu thuộc một trong các trường hợp sau đây là gây hậu quả nghiêm trọng: a.1) Làm chết một người; a.2) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của một đến hai người với tỷ lệ thương tật của mỗi người từ 61% trở lên; a.3) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của ba đến bốn người với tỷ lệ thương tật của mỗi người từ 31% đến 60%; a.4) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của nhiều người với tổng tỷ lệ thương tật của tất cả những người này từ 61% đến 100%, nếu không thuộc các trường hợp được hướng dẫn tại các điểm a.2 và a.3 trên đây; a.5) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của nhiều người với tổng tỷ lệ thương tật từ 31 % đến 60% và còn gây thiệt hại về tài sản có giá trị từ 30 triệu đồng đến dưới 50 triệu đồng; a.6) Gây thiệt hại về tài sản có giá trị từ 50 triệu đồng đến dưới 500 triệu đồng”.

Theo đó, căn cứ vào quy định tại khoản 2 Điều 133 Bộ luật Hình sự, và hướng dẫn về tình tiết “gây hậu quả nghiêm trọng” thì các trường hợp phạm tội gây hậu quả nghiêm trọng:
- Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của một người có tỷ lệ thương tật từ 11% đến 30% không phải là do hành vi dùng vũ lực ngay tức khắc hoặc có hành vi khác làm cho người bị tấn công không thể chống cự được (không phải là hậu quả do hành vi khách quan của cấu thành tội cướp tài sản gây nên);
- Gây thương tích hoặc gây tổn hại đến sức khỏe của một người có tỷ lệ thương tật của mỗi người chưa đến 11%, nhưng tổng tỷ lệ thương tật của tất cả những người bị thương tích từ 11% đến 30%;
- Gây thương tích hoặc gây tổn hại sức khỏe của một người với tỷ lệ thương tật dưới 11% và còn gây thiệt hại về tài sản có giá trị dưới 50 triệu đồng;
- Gây thiệt hại về tài sản có giá trị từ 50 triệu đồng đến dưới 200 triệu đồng, ngoài tài sản bị chiếm đoạt.
Như vậy, hành vi của S là hành vi khiến cho nạn nhân lâm vào tình trạng không thể chống cự được nhằm chiếm đoạt tài sản, cấu thành tội cướp tài sản. Mà hành vi của S gây ra thương tích cho chị với tỷ lệ thương tật là 30%, thuộc trường hợp phạm tội gây hậu quả nghiêm trọng, do đó, S sẽ phải chịu trách nhiệm hình sự về tội cướp tài sản theo quy định tại khoản 2 Điều 133 Bộ luật Hình sự, với khung hình phạt tù là từ 07 năm đến 10 năm.

Khuyến nghị:
  1. Để có ý kiến tư vấn chính xác và cụ thể hơn, Quý vị vui lòng liên hệ với các Luật sư chuyên gia của Công ty Luật TNHH Everest qua Tổng đài tư vấn pháp luật 1900 6198, hoặc E-mail: [email protected].
  2. Nội dung bài tư vấn pháp luật hình sự mà Công ty Luật TNHH Everest cung cấp, Quý vị chỉ nên xem như nguồn tài liệu tham khảo.
  3. Tại thời điểm quý Vị đọc bài viết này, các điều luật chúng tôi viện dẫn có thể đã hết hiệu lực, hoặc đã được sửa đổi, bổ sung; các thông tin trong tình huống là cá biệt. Do đó, chúng tôi không đảm bảo những thông tin này có thể áp dụng cho mọi trường hợp, mọi đối tượng, ở mọi thời điểm.