Phân tích các nguyên tắc trong tố tụng hình sự

Nguyên tắc của tố tụng hình sự (TTHS) là điều kiện cho việc thực hiện các mục đích của TTHS. Nếu như mục đích của tố tụng là cái mà các hoạt động của TTHS cần đạt được thì nguyên tắc chỉ cho chúng ta thấy rằng, cần đạt được kết quả đó như thế nào.

Nguyên tắc của TTHS có chức năng điều chỉnh hành vi tố tụng. Đây cũng là biểu hiện cụ thể chức năng của pháp luật nói chung. Tính điều chỉnh của nguyên tắc thể hiện ở hiệu lực của nó đối với các chủ thể tố tụng mà trước hết là các cơ quan tiến hành tố tụng (THTT), người THTT. Các chủ thể đó có nghĩa vụ nghiêm chỉnh chấp hành các quy định của pháp luật TTHS, thực hiện đúng giới hạn thẩm quyền, tuân thủ các nguyên tắc đã được pháp luật quy định. Không chỉ vi phạm các quy định pháp luật tố tụng cụ thể mà vi phạm các nguyên tắc của TTHS cũng phải được xem là căn cứ để hủy các quyết định tố tụng và vô hiệu các hành vi tố tụng.

Luật sư tư vấn pháp luật hình sự - Tổng đài tư vấn (24/7): 1900 6198
Luật sư tư vấn pháp luật hình sự - Tổng đài tư vấn (24/7): 1900 6198

Có thể phân loại các nguyên tắc kể trên theo các nhóm sau đây:

(i) Nhóm các nguyên tắc có nội dung liên quan đến yêu cầu về bảo đảm pháp chế xã hội chủ nghĩa trong tố tụng hình sự:

Đó là nội dung của các nguyên tắc được quy định tại Điều 3 BLTTHS: "Bảo đảm pháp chế XHCN trong tố tụng hình sự". Theo đó, mọi hoạt động TTHS của cơ quan THTT, người THTT và người tham gia tố tụng (TGTT) phải được tiến hành theo quy định của BLTTHS và Điều 13 BLTTHS xác định trách nhiệm của các Cơ quan điều tra (CQĐT), Viện kiểm sát (VKS), TA trong việc khởi tố và xử lý vụ án hình sự. Theo nguyên tắc này, khi phát hiện có dấu hiệu tội phạm thì các cơ quan nói trên, trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình có trách nhiệm khởi tố vụ án và áp dụng các biện pháp theo luật định để xác định tội phạm và xử lý người phạm tội.

(ii) Nhóm các nguyên tắc bảo đảm các quyền và lợi ích hợp pháp của công dân nói chung và quyền của bị can, bị cáo nói riêng trong quá trình tiến hành tố tụng hình sự:

Trong nhóm này, trước hết đó là nguyên tắc tôn trọng và bảo vệ các quyền cơ bản của công dân được quy định tại Điều 4 BLTTHS. Theo đó, khi THTT, những người THTT trong phạm vi trách nhiệm của mình phải tôn trọng và bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, thường xuyên kiểm tra tính hợp pháp và sự cần thiết của những biện pháp đã áp dụng, kịp thời hủy bỏ hoặc thay đổi những biện pháp đó, nếu xét thấy có vi phạm pháp luật hoặc không còn cần thiết nữa. Có thể nói rằng, nguyên tắc này có nội dung rất gần với đòi hỏi về pháp chế vì hàm chứa trong đó đòi hỏi về việc xem xét, đánh giá, kiểm tra tính hợp pháp của các biện pháp đã áp dụng. Tuy nhiên, mục đích của việc đặt ra nguyên tắc này là để bảo đảm sự tôn trọng và bảo vệ các quyền cơ bản của công dân trong các hoạt động TTHS mà không chỉ dừng lại ở yêu cầu về việc nghiêm chỉnh thực hiện pháp luật.

Khách thể ở đây là quyền của công dân. Cùng hướng bảo đảm quyền con người, quyền công dân trong TTHS là nội dung của các nguyên tắc được quy định tại Điều 5 BLTTHS "Bảo đảm quyền bình đẳng của mọi công dân trước pháp luật", theo đó Bộ luật nhấn mạnh đến việc không phân biệt đối xử trong TTHS, bất cứ người nào phạm tội đều bị xử lý theo pháp luật. Kế đó là các nguyên tắc bảo đảm quyền bất khả xâm phạm, sức khoẻ, danh dự, nhân phẩm, tài sản của công dân (Điều 7); nguyên tắc về quyền bất khả xâm phạm về chỗ ở, an toàn và bí mật thư tín, điện thoại, điện tín của công dân (Điều 8); nguyên tắc "không ai bị coi là có tội khi chưa có bản án kết tội của Toà án đã có hiệu lực pháp luật" (Điều 9); nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo (Điều 11); nguyên tắc về tiếng nói và chữ viết dùng trong TTHS (Điều 24); nguyên tắc bảo đảm quyền được bồi thường thiệt hại và phục hồi danh dự, quyền lợi của người bị oan (Điều 29); nguyên tắc bảo đảm quyền được bồi thường của người bị thiệt hại do cơ quan hoặc người có thẩm quyền THTT hình sự gây ra (Điều 30).

(iii) Nhóm các nguyên tắc về tính chất của hoạt động tố tụng hình sự:

Những nguyên tắc thuộc nhóm này là những tư tưởng, quan điểm chỉ đạo được quy định trong BLTTHS nói lên tính chất và đặc điểm hoạt động của các cơ quan tiến hành tố tụng, những bảo đảm về tính thận trọng, vô tư, khách quan trong các hoạt động tố tụng. Đó là nguyên tác quy định trách nhiệm chúng minh tội phạm thuộc về các cơ quan THTT. Bị can, bị cáo có quyền nhưng không buộc phải chứng minh là mình vô tội (Điều 10); nguyên tắc bảo đảm sự vô tư của những người THTT hoặc người tham gia tố tụng (Điều 14); nguyên tác Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật (Điều 16); nguyên tắc Toà án xét xử tập thể và quyết định theo đa số (Điều 17); nguyên tắc xét xử công khai (Điều 18); nguyên tắc bảo đảm quyền bình đẳng trước Toà án. Theo đó, Kiểm sát viên, bị cáo, người bào chữa, người bị hại, nguyên đơn dân sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án, người đại diện hợp pháp của họ, người vệ quyền lợi của đương sự đều có quyền đẳng trong việc đưa ra chứng cứ, tài liệu, đồ vật, đưa ra yêu cầu và tranh luận dân chủ trước TA. Tòa án có trách nhiệm tạo điều kiện cho họ thực hiện các quyền đó nhằm làm rõ sự thật khách quan của vụ án (Điều 19); nguyên tắc thực hiện chế độ hai cấp xét xử (Điều 20); nguyên tắc giải quyết các vấn đề dân sự trong vụ án hình sự (Điều 28); nguyên tắc bảo đảm quyền khiếu nại, tố cáo trong TTHS (Điều 31).

Luật sư tư vấnpháp luật hình sự- Tổng đài tư vấn (24/7):1900 6198
Luật sư tư vấnp háp luật hình sự- Tổng đài tư vấn (24/7): 1900 6198


(iv) Nhóm các nguyên tắc về sự tham gia của nhân dân và sự phối hợp, hỗ trợ của các cơ quan nhà nước khác đối với hoạt động tố tụng hình sự:

Những nguyên tắc này được coi là những bảo đảm quan trọng cho hiệu hoạt động của TTHS. Đó là: Nguyên tắc thực hiện chế độ xét xử có Hội thẩm nhân dân tham gia, theo đó, việc xét xử của Toà án nhân có Hội thẩm nhân dân, của Tòa án quân sự có Hội thẩm quân nhân tham gia. Khi xét xử Hội thẩm ngang quyền với Thẩm phán (Điều 15); nguyên tắc về trách nhiệm của các tổ chức và công dân trong đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm (Điều 25). Theo quy định điều luật này, cơ quan THTT có trách nhiệm tạo điều kiện để các tổ chức và công dân tham gia TTHS; phải trả lời kết quả giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm cho tổ chức đã báo tin, người đã tố giác tội phạm biết; nguyên tắc về sự phối hợp giữa các cơ quan nhà nước và các cơ quan THTT (Điều 26); nguyên tắc về sự giám sát của các cơ quan tổ chức, đại biểu dân cử đối với hoạt động của cơ quan THTT, người THTT (Điều 32).

Các nguyên tắc của TTHS nước ta chứa đựng những tư tưởng chỉ đạo chặt chẽ, cụ thể, rõ ràng, tạo điều kiện cho sự vận dụng chúng trong các hoạt động TTHS. Tính chất đó của các nguyên tắc hoàn toàn phù hợp với yêu cầu và đặc điểm của TTHS là một loại hoạt động quyền lực, do đó; khả năng vi phạm các quy định về quyền hạn và nhiệm vụ, trách nhiệm và thẩm quyền là rất lớn.

Bài viết được thực hiện bởi: thạc sĩ, luật sư Phạm Ngọc Minh - Giám đốc Công ty Luật TNHH Everest, Giảng viên khoa Luật kinh tế - Trường Đại học Hòa Bình.

Xem thêm:

Khuyến nghị của Công ty Luật TNHH Everest:
  1. Bài viết được luật sư, chuyên gia của Công ty Luật TNHH Everest thực hiện nhằm mục đích nghiên cứu khoa học hoặc phổ biến kiến thức pháp luật, hoàn toàn không nhằm mục đích thương mại.
  2. Bài viết có sử dụng những kiến thức hoặc ý kiến của các chuyên gia được trích dẫn từ nguồn đáng tin cậy. Tại thời điểm trích dẫn những nội dung này, chúng tôi đồng ý với quan điểm của tác giả. Tuy nhiên, quý Vị đây chỉ nên coi đây là những thông tin tham khảo, bởi nó có thể chỉ là quan điểm cá nhân người viết.
  3. Trường hợp cần giải đáp thắc mắc về vấn đề có liên quan, hoặc cần ý kiến pháp lý cho vụ việc cụ thể, Quý vị vui lòng liên hệ với chuyên gia, luật sư của Công ty Luật TNHH Everest qua Tổng đài tư vấn pháp luật 19006198, E-mail: [email protected].