Quy định của pháp luật về việc phục hồi điều tra

Việc phục hồi điều tra được quy định tại điều 235 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 (có hiệu lực pháp lý từ ngày 01/01/2018).

Phục hồi điều tra có thể được coi là một giai đoạn đặc biệt của quá trình điều tra. Nó đặc biệt, bởi vì, không phải trong mọi vụ án đều có giai đoạn này. Giai đoạn phục hồi điều tra chỉ được thực hiện khi có những tình tiết đặc biệt và khi trước đó cuộc điều tra đã được tạm đình chỉ hoặc đình chỉ do hết thời hạn điều tra mà chưa chứng minh được hành vi tội phạm.

Căn cứ pháp lý của việc phục hồi điều tra

Điều 235 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 (có hiệu lực pháp lý từ ngày 01/01/2018) quy định về việc phục hồi điều tra như sau:

“1. Khi có lý do để hủy bỏ quyết định đình chỉ điều tra hoặc quyết định tạm đình chỉ điều tra thì Cơ quan điều tra ra quyết định phục hồi điều tra, nếu chưa hết thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự.

Nếu việc điều tra bị đình chỉ theo quy định tại khoản 5 và khoản 6 Điều 157 của Bộ luật này mà bị can không đồng ý và yêu cầu điều tra lại thì Cơ quan điều tra hoặc Viện kiểm sát cùng cấp ra quyết định phục hồi điều tra.

2. Trong thời hạn 02 ngày kể từ ngày ra quyết định phục hồi điều tra, Cơ quan điều tra phải gửi quyết định này cho Viện kiêm sát cùng cấp, bị can, người bào chữa hoặc người đại diện của bị can; thông báo cho bị hại, đương sự và người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của họ.”

Căn cứ đưa ra quyết định phục hồi điều tra

Việc đình chỉ hoặc tạm đình chỉ điều tra sẽ đưa đến hậu quả pháp lí là vụ án bị chấm dứt hoặc vụ án tạm dừng trong một khoảng thời gian xác định khi có các căn cứ theo luật định. Do đó, khi căn cứ này không còn, nói cách khác, khi có lý do để hủy bỏ quyết định đình chỉ điều tra hoặc quyết định tạm đình chỉ điều tra thì Cơ quan điều tra ra quyết định phục hồi điều tra.

Quyết định phục hồi điều tra sẽ đưa vụ án trở lại “vòng quay” tố tụng hình sự. Các cơ quan có thẩm quyền tiếp tục tiến hành giải quyết vụ án đó.

Tuy nhiên, khi phục hồi điều tra cần chú ý thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự. Chỉ được phục hồi điều tra khi thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự vẫn còn. Thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự là 05 năm đối với tội phạm ít nghiêm trọng, 10 năm đối với tội phạm nghiêm trọng, 15 năm đối với tội phạm rất nghiêm trọng và 20 năm đối với tội phạm đặc biệt nghiêm trọng .

Ví dụ: Căn cứ tạm đình chỉ điều tra khi có kết luận giám định tư pháp xác định bị can bị bệnh tâm thần. Do đó, khi căn cứ này không còn (bị can khỏi bệnh tâm thần), trước khi phục hồi điều tra, Cơ quan điều tra phải xem thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự đối với tội phạm mà bị can gây ra còn hay không. Nếu đã hết thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự thì không được phục hồi điều tra trừ trường hợp bị can yêu cầu điều tra lại.

Luật sư tư vấn pháp luật hình sự - Tổng đài tư vấn (24/7): 1900 6198
Luật sư tư vấn pháp luật hình sự - Tổng đài tư vấn (24/7): 1900 6198

Quyền của bị can đối với việc phục hồi điều tra

Bị can có quyền yêu cầu điều tra lại nếu việc điều tra bị đình chỉ theo quy định tại khoản 5 và khoản 6 Điều 157 của Bộ luật Tố tụng hình sự mà bị can không đồng ý và yêu cầu điều tra lại.

Đây là trường hợp vụ án đình chỉ do đã hết thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự như phân tích ở trên, hoặc vụ án đình chỉ do tội phạm đã được đại xá. Nhà làm luật quy định quyền yêu cầu điều tra lại đối với hai căn cứ này nhằm đảm bảo quyền, lợi ích cho bị can về việc đồng ý hoặc không đồng ý với các quyết định tố tụng của cơ quan có thẩm quyền, qua đó bị can có thể bảo đảm danh dự, uy tín của mình.

Ví dụ: bị can không phạm tội nhưng vụ án đình chỉ do hết thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự sẽ khiến bị can cảm thấy mất danh dự, uy tín của mình. Bị can có thể yêu cầu điều tra lại với mong muốn căn cứ đình chỉ khác như hành vi không cấu thành tội phạm. Trong trường hợp này, Cơ quan điều tra hoặc Viện kiểm sát cùng cấp ra quyết định phục hồi điều tra.

Khuyến nghị của Công ty Luật TNHH Everest:

1. Bài viết được luật sư, chuyên gia của Công ty Luật TNHH Everest thực hiện nhằm mục đích nghiên cứu khoa học hoặc phổ biến kiến thức pháp luật, hoàn toàn không nhằm mục đích thương mại.

2. Bài viết có sử dụng những kiến thức hoặc ý kiến của các chuyên gia được trích dẫn từ nguồn đáng tin cậy. Tại thời điểm trích dẫn những nội dung này, chúng tôi đồng ý với quan điểm của tác giả. Tuy nhiên, quý Vị đây chỉ nên coi đây là những thông tin tham khảo, bởi nó có thể chỉ là quan điểm cá nhân người viết.

3. Trường hợp cần giải đáp thắc mắc về vấn đề có liên quan, hoặc cần ý kiến pháp lý cho vụ việc cụ thể, Quý vị vui lòng liên hệ với chuyên gia, luật sư của Công ty Luật TNHH Everest qua Tổng đài tư vấn pháp luật19006198, E-mail: [email protected].