Các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017
Các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017 (viết tắt là Bộ luật Hình sự). Bộ luật hình sự không quy định khái niệm tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự. Về cơ bản, tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự là các tình tiết được quy định trong Bộ luật Hình sự hoặc là tình tiết được ghi nhận trong các văn bản hướng dẫn áp dụng pháp luật hay các tình tiết khác do Tòa án xem xét phù hợp mà căn cứ vào đó Tòa án quyết định hình phạt đối với người phạm tội. Người phạm tội nếu có các tình tiết giảm nhẹ theo quy định của luật này sẽ được xem xét để chịu hình phạt nhẹ hơn trong các trường hợp thông thường.
Khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015 quy định về các tình tiết giảm nhẹ đã được xác định rõ:
“ Điều 51. Các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự
1. Các tình tiết sau đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:
a) Người phạm tội đã ngăn chặn hoặc làm giảm bớt tác hại của tội phạm;
b) Người phạm tội tự nguyện sửa chữa, bồi thường thiệt hại hoặc khắc phục hậu quả;
c) Phạm tội trong trường hợp vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng;
d) Phạm tội trong trường hợp vượt quá yêu cầu của tình thế cấp thiết;
đ) Phạm tội trong trường hợp vượt quá mức cần thiết khi bắt giữ người phạm tội;
e) Phạm tội trong trường hợp bị kích động về tinh thần do hành vi trái pháp luật của nạn nhân gây ra;
g) Phạm tội vì hoàn cảnh đặc biệt khó khăn mà không phải do mình tự gây ra;
h) Phạm tội nhưng chưa gây thiệt hại hoặc gây thiệt hại không lớn;
i) Phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng;
k) Phạm tội vì bị người khác đe dọa hoặc cưỡng bức;
l) Phạm tội trong trường hợp bị hạn chế khả năng nhận thức mà không phải do lỗi của mình gây ra;
m) Phạm tội do lạc hậu;
n) Người phạm tội là phụ nữ có thai;
o) Người phạm tội là người đủ 70 tuổi trở lên;
p) Người phạm tội là người khuyết tật nặng hoặc khuyết tật đặc biệt nặng;
q) Người phạm tội là người có bệnh bị hạn chế khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi của mình;
r) Người phạm tội tự thú;
s) Người phạm tội thành khẩn khai báo hoặc ăn năn hối cải;
t) Người phạm tội tích cực giúp đỡ các cơ quan có trách nhiệm phát hiện hoặc điều tra tội phạm;
u) Người phạm tội đã lập công chuộc tội;
v) Người phạm tội là người có thành tích xuất sắc trong sản xuất, chiến đấu, học tập hoặc công tác;
x) Người phạm tội là cha, mẹ, vợ, chồng, con của liệt sĩ, người có công với cách mạng.”
Khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015 quy định: “Khi quyết định hình phạt, Tòa án có thể coi đầu thú hoặc tình tiết khác là tình tiết giảm nhẹ, nhưng phải ghi rõ lý do giảm nhẹ trong bản án”. Đây là những tình tiết không được liệt kê cụ thể trong Bộ luật Hình sự nhưng trong quá trình xét xử, Tòa án có thể tự mình xem xét, cân nhắc coi những tình tiết khác là tình tiết giảm nhẹ TNHS trong những trường hợp cụ thể.
Để được hưởng án treo, Bộ luật Hình sự quy định để được hưởng án treo người phạm tội phải có các tình tiết giảm nhẹ. Bộ luật Hình sự không quy định rõ các tình tiết giảm nhẹ là bao nhiêu. Khoản 3 Điều 2 Nghị quyết 02/2018/NQ-HĐTP của Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng Điều 65 của Bộ luật Hình sự về án treo có quy định: người phạm tội phải có từ 02 tình tiết giảm nhẹ trở lên, trong đó có ít nhất 01 tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự và không có tình tiêt tăng nặng trách nhiệm hình sự quy định tại khoản 1 Điều 52 của Bộ luật Hình sự. Như vậy bắt buộc người phạm tội phải có ít nhất 01 tình tiết giảm nhẹ đã được liệt kê, nếu người phạm tội có 02 tình tiết giảm nhẹ nhưng không thuộc Khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự thì cũng không được xem xét để hưởng án treo.
Trường hợp có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự thì số tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự phải nhiều hơn số tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự từ 02 tình tiết trở lên, trong đó có ít nhất 01 tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tạikhoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự.
Trong thực tế xét xử thì một số tình tiết giảm nhẹ có ý nghĩa để được xét hưởng án treo được xem xét như:
- Người phạm tội tự nguyện sửa chữa phạm tội tự nguyện, bồi thường thiệt hại hoặc khắc phục hậu quả
Đây là trường hợp người phạm tội đã gây ra hậu quả thiệt hại và đã tự nguyện (không phải vì bị ép buộc) thực hiện cac hành vi khắc phục hậu quả của tội phạm là sửa chữa tài sản bị hư hỏng, bồi thường về vật chất thiệt hại về tài sản, thể chất, tinh thần hoặc có những hành vi khác khắc phục hậu quả của tội phạm.
Các hành vi trên đây cũng đồng thời phản ánh thái độ ăn năn hối lỗi của người phạm tội đối với các hành vi phạm tội của mình. Mức độ giảm nhẹ trách nhiệm hình sự trong trường hợp này phụ thuộc vào sự cố gắng của người phạm tội cũng như vào mức độ hậu quả được khắc phục trên thực tế.
- Phạm tội nhưng chưa gây thiệt hại hoặc thiệt hại không lớn
Trường hợp phạm tội có tình tiết này giống trường hợp phạm tội có tình tiết ngăn chặn, làm giảm bớt tác hại của tội phạm ở chỗ thiệt hại của tội phạm không xảy ra hoặc xảy ra không lớn nhưng khác nhau ở nguyên nhân dẫn đến việc không xảy ra thiệt hại hoặc thiệt hại xảy ra không lớn. Trường hợp chưa gây thiệt hại hoặc gây thỉệt hại không lớn có nguyên nhân là nguyên nhân khách quan nằm ngoài ý muốn của người phạm tội; còn trong trường hợp ngăn chăn, làm giảm bớt tác hại của tội phạm, người phạm tội đã có hành động tích cực để có được kết quả đó. Do hậu quả là yếu tố quyết định mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội nên tình tiết dây thiệt hại hoặc thiệt hại gây ra không lớn là trường hợp được giảm nhẹ trách nhiệm hình sự.
- Người phạm tội tự thú
Đây là trường hợp tuy chưa bị phát hiện là người phạm tội nhưng chủ thể đã tự đến cơ quan có thẩm quyền trình diện và khai báo về hành vi phạm tội của mình.
- Người phạm tội thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải
Đây là trường hợp người phạm tội đã khai rõ và đúng sự thật tất cả những gì liên quan đến hành vi phạm tội mà họ đã thực hiện mà họ đã thực hiện tội phạm và mong muốn sửa chữa lỗi lầm thông qua việc chấp hành nghiêm chỉnh pháp luật, tích cực lao động...
Khuyến nghị của Công ty Luật TNHH Everest:
1. Bài viết trong lĩnh vực hình sự (nêu trên) được luật sư, chuyên gia của Công ty Luật TNHH Everest thực hiện nhằm mục đích nghiên cứu khoa học hoặc phổ biến kiến thức pháp luật, hoàn toàn không nhằm mục đích thương mại.
2. Bài viết có sử dụng những kiến thức hoặc ý kiến của các luật sư, chuyên gia được trích dẫn từ nguồn đáng tin cậy. Tại thời điểm trích dẫn những nội dung này, chúng tôi đồng ý với quan điểm của tác giả. Tuy nhiên, quý Vị chỉ nên coi đây là những thông tin tham khảo, bởi nó có thể chỉ là quan điểm cá nhân người viết.
3. Trường hợp cần giải đáp thắc mắc về vấn đề có liên quan, hoặc cần ý kiến pháp lý cho vụ việc cụ thể, Quý vị vui lòng liên hệ với chuyên gia, luật sư của Công ty Luật TNHH Everest qua Tổng đài tư vấn pháp luật:1900 6198, E-mail:[email protected].
Bình luận