Các tội phạm này xâm phạm hoạt động tư pháp, gây ra những thiệt hại khác như thiệt hại về quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức hoặc cơ quan nhà nước
Người phạm tội đã dùng những thủ đoạn khác nhau tác động đến ý chí của những người này để buộc họ phải khai không đúng với sự thật và trái với ý muốn của họ.
Thứ nhất, về quy định tại điều 374 Bộ luật hình sự năm 2015
“Điều 374. Tội bức cung
1. Người nào trong hoạt động tố tụng mà sử dụng thủ đoạn trái pháp luật ép buộc người bị lấy lời khai, hỏi cung phải khai ra thông tin liên quan đến vụ án, vụ việc, thì bị phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm.
2. Phạm tội thuộc một trong những trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 02 năm đến 07 năm:
a) Phạm tội 02 lần trở lên;
b) Đối với 02 người trở lên;
c) Đối với người dưới 18 tuổi, phụ nữ mà biết là có thai, người già yếu, người khuyết tật nặng hoặc khuyết tật đặc biệt nặng;
d) Dùng nhục hình hoặc đối xử tàn bạo, hạ nhục nhân phẩm người bị lấy lời khai, hỏi cung;
đ) Dùng thủ đoạn tinh vi, xảo quyệt;
e) Làm sai lệch kết quả khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử;
g) Ép buộc người bị lấy lời khai, người bị hỏi cung phải khai sai sự thật.
3. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây,thì bị phạt tù từ 07 năm đến 12 năm:
a) Làm người bị bức cung tự sát;
b) Dẫn đến bỏ lọt tội phạm ít nghiêm trọng hoặc tội phạm nghiêm trọng.
4. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 12 năm đến 20 năm hoặc tù chung thân:
a) Làm người bị bức cung chết;
b) Dẫn đến làm oan người vô tội;
c) Dẫn đến bỏ lọt tội phạm rất nghiêm trọng hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng.
5. Người phạm tội còn bị cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề từ 01 năm đến 05 năm.”
Thứ hai, bình luận về điều 374 Bộ luật hình sự năm 2015
Bộ luật hình sự năm 2015 mở rộng phạm vi chủ thể tội phạm so với Bộ luật hình sự năm 1999: Chủ thể của tội bức cung là “người nào trong hoạt động tố tụng”
(i) Dấu hiệu pháp lý của tội bức cung
* Chủ thể: Chủ thể của tội phạm là chủ thể đặc biệt, là bất kỳ người nào trong hoạt động tổ tụng, cụ thể nhất là người có trách nhiệm tiến hành điều tra, truy tố, xét xử.
* Khách thể: xâm phạm đến tính đúng đắn của hoạt động tố tụng
* Hành vi khách quan và hậu quả:
Hành vi của tội này là hành vi cưỡng ép người bị thẩm vấn phải khai sai sự thật. Người bị thẩm vấn ở đây có thể là bị can, bị cáo hoặc người làm chứng hoặc người bị hại. Người phạm tội đã dùng những thủ đoạn khác nhau tác động đến ý chí của những người này để buộc họ phải khai không đúng với sự thật và trái với ý muốn của họ.
Hậu quả của hành vi nói trên đó là dẫn tới người bị thẩm vấn đã khai sai và do vậy gây hậu quả nghiêm trọng cho việc giải quyết vụ án. Hậu quả nghiêm trọng ở đây có thể là hậu quả xử sai một cách nghiêm trọng (oan hoặc bỏ lọt, xử phạt quá nặng hoặc xừ phạt quá nhẹ...) hoặc có thê băt giam người sai...
* Yếu tố lỗi: Lỗi của người phạm tội là lỗi cố ý.
(ii) Hình phạt:
Có 3 khung hình phạt:
Khung cơ bản có mức phạt tù từ 6 tháng đến 3 năm.
Khung tăng nặng thứ nhất là phạt tù từ 2 năm đến 7 năm đối với trường hợp phạm tội gây hậu quà rất nghiêm trọng.
Khung tăng nặng thứ hai có mức phạt tù từ 5 năm đến 10 năm được áp dụng cho trường hợp phạm tội gây hậu quả nghiêm trọng.
Hình phạt bổ sung bắt buộc cho tội này là cấm đảm nhiệm chức vụ.
Bộ luật hình sự sửa đổi bổ sung 2009 quy định hành vi bức cung phải gây hậu quà nghiêm trọng thì mới bị truy cứu trách nhiệm nhiệm hình sự. Đến Bộ luật hình sự năm 2015 thì chỉ cân người tiến hành tố tụng có dấu hiệu “ép buộc người bị lấy lời khai, hòi cung phải khai ra thông tin liên quan đến vụ án, vụ việc” không xét đến hậu quả cũng đã bị truy cứu trách nhiệm hình sự. Đây cũng là một điểm mới của Bộ luật hình sự năm 2015 so với Bộ luật hình sự năm 1999 sửa đôi bồ sung năm 2009.
Hình phạt liên quan đến tội này đã có sự thay đổi, cụ thể và nghiêm khắc hơn. Khung hình phạt cao nhất lên đến tù chung thân chứ không còn là 10 năm theo Bộ luật hình sự sửa đối 2009 nữa. Đồng thời, ngoài trách nhiệm hình sự người phạm tội còn bị cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề từ 01 năm đến 05 năm.
Khuyến nghị của công ty Luật Everest:
- Bài viết được luật sư, chuyên gia của Công ty Luật TNHH Everest thực hiện nhằm mục đích nghiên cứu khoa học hoặc phổ biến kiến thức pháp luật, hoàn toàn không nhằm mục đích thương mại.
- Bài viết có sử dụng những kiến thức hoặc ý kiến của các chuyên gia được trích dẫn từ nguồn đáng tin cậy. Tại thời điểm trích dẫn những nội dung này, chúng tôi đồng ý với quan điểm của tác giả. Tuy nhiên, quý vị đây chỉ nên coi đây là những thông tin tham khảo, bởi nó có thể chỉ là quan điểm cá nhân người viết.
- Trường hợp cần giải đáp thắc mắc về vấn đề có liên quan, hoặc cần ý kiến pháp lý cho vụ việc cụ thể, Quý vị vui lòng liên hệ với chuyên gia, luật sư của Công ty Luật TNHH Everest qua Tổng đài tư vấn pháp luật 19006198, E-mail: [email protected].
Bình luận