Tội dùng nhục hình xâm phạm đến hoạt động tố tụng theo quy định của Bộ luật hình sự hiện hành đồng thời cũng xâm phạm một số quyền cơ bản của công dân.
Tội phạm này xâm phạm trực tiếp đến tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm, danh dự của người tham gia tố tụng, làm giảm uy tín của Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát Tòa án và Cơ quan thi hành án.
Thứ nhất, về quy định tại điều 373 Bộ luật hình sự năm 2015
“Điều 373. Tội dùng nhục hình
1. Người nào trong hoạt động tố tụng, thi hành án hoặc thi hành các biện pháp đưa vào trường giáo dưỡng, đưa vào cơ sở giáo dục bắt buộc, đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc mà dùng nhục hình hoặc đối xử tàn bạo, hạ nhục nhân phẩm của người khác dưới bất kỳ hình thức nào,thì bị phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm.
2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 02 năm đến 07 năm:
a) Phạm tội 02 lần trở lên;
b) Đối với 02 người trở lên;
c) Dùng thủ đoạn tinh vi, xảo quyệt;
d) Đối với người dưới 18 tuổi, phụ nữ mà biết là có thai, người già yếu, người khuyết tật nặng hoặc khuyết tật đặc biệt nặng;
đ) Gây thương tích hoặc gây thiệt hại về sức khoẻ cho người khác mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 11% đến 60%.
3. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 07 năm đến 12 năm:
a) Gây thương tích hoặc gây thiệt hại về sức khoẻ cho người khác mà tỷ lệ tổn thương cơ thể 61% trở lên;
b) Làm người bị nhục hình tự sát.
4. Phạm tội làm người bị nhục hình chết, thì bị phạt tù từ 12 năm đến 20 năm hoặc tù chung thân.
5. Người phạm tội còn bị cấm đảm nhiệm chức vụ nhất định từ 01 năm đến 05 năm.”
Thứ hai, bình luận về điều 373 Bộ luật hình sự năm 2015
(i) Khái niệm
Bộ luật hình sự năm 2015 mở rộng phạm vi chủ thể tội phạm so với Bộ luật hình sự năm 1999: Chủ thể của tội dùng nhục hình là “người nào trong hoạt động tố tụng, thi hành án và thi hành các biện pháp đưa vào trường giáo dưỡng, đưa vào cơ sở giáo dục bắt buộc, đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc”.
(ii) Dấu hiệu pháp lý của tội dùng nhục hình
*Khách thế của tội phạm:
Tội phạm này xâm phạm trực tiếp đến tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm, danh dự của người tham gia tố tụng, làm giảm uy tín của Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát Tòa án và Cơ quan thi hành án.
*Mặt khách quan của tội phạm:
Người có thẩm quyền trong hoạt động điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án hình sự hoặc thi hành các biện pháp đưa vào trường giáo dưỡng, đưa vào cơ sở giáo dục bắt buộc, đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc có thể thực hiện một trong các hành vi sau:
+ Tra tấn, đánh đập, bắt nhịn ăn, nhịn uống, cho ăn cơm thừa, canh cặn, không cho ngủ, cùm kẹp, hỏi cung suốt ngày đêm, bắt phơi nắng, bắt tắm nước lạnh vào mùa đông hoặc có hành vi khác gây đau đớn về thể xác và tinh thần đối với người bị tạm giữ, tạm giam, bị can, bị cáo, người bị kết án đang chấp hành hình phạt tù trong các trại giam hoặc những người tham gia tố tụng khác.
Hậu quả không phải là dấu hiệu bắt buộc của tội phạm này, chi cần người phạm tội thực hiện hành vi dùng nhục hình là tộị phạm đã hoàn thành.
* Mặt chủ quan của tội phạm:
Người phạm tội thực hiện các hành vi phạm tội của mình là do lỗi cố ý, tức là người phạm tội nhận thức được hành vi của mình là trái pháp luật, thây trước hậu quả của hành vi đó và mong muốn hậu quả xảy ra hoặc chỉ thấy trước hậu quả của hành vi đó có thể xảy ra, tuy không mong muốn nhưng vẫn có ý thức để mặc cho hậu quả xảy ra.
* Chủ thể của tội phạm:
Chủ thể của tội phạm này là chủ thể đặc biệt, chỉ có những người có thẩm quyền trong hoạt động điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án hình sự hoặc thi hành các biện pháp đưa vào trường giáo dưỡng, đưa vào cơ sở giáo dục bắt buộc, đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc như: Thủ trưởng, Phó thủ trưởng Cơ quan điều tra, Viện trưởng, Phó viện trưởng Viện kiểm sát; Chánh án, Phó chánh án Tòa án; Điều tra viên, Kiểm sát viên, Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân, Thư ký Tòa án, các cán bộ trong các nhà Tạm giữ, Trại tạm giam, Trại giam (Ban giám thị, Quản giáo) mới có the thực hiện được tội phạm này.
(iii) Về hình phạt
Quy định tại điều 373 Bộ luật hình sự năm 2015
Khuyến nghị của công ty Luật Everest:
- Bài viết được luật sư, chuyên gia của Công ty Luật TNHH Everest thực hiện nhằm mục đích nghiên cứu khoa học hoặc phổ biến kiến thức pháp luật, hoàn toàn không nhằm mục đích thương mại.
- Bài viết có sử dụng những kiến thức hoặc ý kiến của các chuyên gia được trích dẫn từ nguồn đáng tin cậy. Tại thời điểm trích dẫn những nội dung này, chúng tôi đồng ý với quan điểm của tác giả. Tuy nhiên, quý vị đây chỉ nên coi đây là những thông tin tham khảo, bởi nó có thể chỉ là quan điểm cá nhân người viết.
- Trường hợp cần giải đáp thắc mắc về vấn đề có liên quan, hoặc cần ý kiến pháp lý cho vụ việc cụ thể, Quý vị vui lòng liên hệ với chuyên gia, luật sư của Công ty Luật TNHH Everest qua Tổng đài tư vấn pháp luật 19006198, E-mail: [email protected], [email protected].
Bình luận