Hành vi giao cho người không đủ điều kiện điều khiển phương tiện tham gia giao thông đường bộ là hành vi nguy hiểm cho xã hội. Nếu người không đủ điều kiện điều khiển phương tiện tham gia giao thông đường bộ mà gây thiệt hại cho người khác do không đủ điều kiện điều khiển phương tiện tham gia giao thông thì người đó có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự và người giao phương tiện cũng có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự.
Tội giao cho người không đủ điềm kiện điều khiển phương tiện tham gia giao thông đường bộ được quy định tại Điều 264 Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017, có hiệu lực thi hành ngày 01/01/2018 (sau đây gọi là "Bộ luật Hình sự năm 2015") như sau:
1. Người nào giao cho người mà biết rõ người đó không có giấy phép lái xe hoặc đang trong tình trạng có sử dụng rượu, bia mà trong máu hoặc hơi thở có nồng độ cồn vượt quá mức quy định, có sử dụng chất ma túy, chất kích thích mạnh khác hoặc không đủ các điều kiện khác theo quy định của pháp luật điều khiển phương tiện tham gia giao thông đường bộ gây thiệt hại cho người khác thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng hoặc phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm: (a) Làm chết người; (b) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 01 người mà tỷ lệ tổn thương cơ thể 61% trở lên; (c) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 02 người trở lên mà tổng tỷ lệ tổn thương cơ thể của những người này từ 61% đến 121%; (d) Gây thiệt hại về tài sản từ 100.000.000 đồng đến dưới 500.000.000 đồng.
2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tiền từ 50.000.000 đồng đến 200.000.000 đồng hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm: (a) Làm chết 02 người; (b) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 02 người trở lên mà tổng tỷ lệ tổn thương cơ thể của những người này từ 122% đến 200%; (c) Gây thiệt hại về tài sản từ 500.000.000 đồng đến dưới 1.500.000.000 đồng.
3. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 02 năm đến 07 năm: (a) Làm chết 03 người trở lên; (b) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 03 người trở lên mà tổng tỷ lệ tổn thương cơ thể của những người này 201% trở lên; (c) Gây thiệt hại về tài sản 1.500.000.000 đồng trở lên.
4. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 30.000.000 đồng.
Như vậy, dấu hiệu bắt buộc của tội này là người giao phương tiện giao thông đường bộ cho người khác điều khiển phải biết người đó không có giấy phép lái xe hoặc đang trong tình trạng có sử dụng rượu, bia mà trong máu hoặc hơi thở có nồng độ cồn vượt quá mức quy định, chất kích thích mạnh khác hoặc không đủ các điều kiện khác theo quy định của pháp luật. Trong trường hợp giao cho người khác điều khiển phương tiện tham gia giao thông mà không biết người đó không đủ điều kiện điều khiển phương tiện tham gia giao thông đường bộ thì sẽ không phạm tội theo quy định tại Điều 264 Bộ luật Hình sự 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017.
Các yếu tố cấu thành tội phạm của tội giao cho người không đủ điều kiện điều khiển phương tiện tham gia giao thông đường bộ
(i) Mặt khách quan của tội giao cho người không đủ điều kiện điểu khiển phương tiện tham gia giao thông đường bộ
Hành vi khách quan: Hành vi giao xe cho người mà biết rõ là người đó không có đủ điều kiện điều khiển phương tiện tham gia giao thông đường bộ là hành vi trái pháp luật, xâm phạm an toàn công cộng, trật tự công cộng. Để xác định hành vi giao xe cho người không có đủ điều kiện điều khiển phương tiện tham gia giao thông đường bộ có phải là hành vi của tội phạm hay không phải căn cứ vào việc người đó có biết hoặc buộc phải biết người được giao phương tiện để tham gia giao thông không có đủ điều kiện điều kiện không.
Hậu quả: Cũng như tội vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ, có hậu quả xảy ra là điều kiện bắt buộc để cấu thành tội giao cho người không đủ điều kiện điều khiển phương tiện tham gia giao thông đường bộ. Hậu quả của tội này là do người không đủ điều kiện điều khiển phương tiện tham gia giao thông đường bộ nên gây thiệt hại về tài sản, sức khỏe, tính mạng của người khác. Nếu người điều khiển phương tiện tham gia giao thông đường bộ không gây thiệt hại hoặc thiệt hại chưa đủ truy tố trách nhiệm hình sự thì người giao xe sẽ bị xử phạt vi phạm hành chính.
Mối quan hệ nhân quả: Hành vi giao xe cho người không đủ điều kiện điều khiển phương tiện tham gia giao thông đường bộ là nguyên nhân dẫn đến hậu quả thiệt hại về tài sản, sức khỏe, tính mạng của người khác. Nếu hậu quả xảy ra không xuất phát từ việc người không đủ điều kiện điều khiển phương tiện tham gia giao thông đường bộ thì người giao xe không phải chịu trách nhiệm về hậu quả đó.
(ii) Mặt chủ quan củatội giao cho người không đủ điều kiện điểu khiển phương tiện tham gia giao thông đường bộ
Lỗi của người phạmtội giao cho người không đủ điều kiện điểu khiển phương tiện tham gia giao thông đường bộ là lỗi vô ý.Đối với tội phạm này, người phạm tội tuy thấy trước hành vi giao cho người không đủ điều kiện điều khiển phương tiện tham gia giao thông đường bộ có thể gây ra hậu quả nguy hại cho xã hội nhưng cho rằng hậu quả đó sẽ không xảy ra hoặc có thể ngăn ngừa được hoặc người phạm tội không thấy trước hành vi đó có thể gây ra hậu quả nguy hại cho xã hội, mặc dù phải thấy trước và có thể thấy trước hậu quả đó.
(iii) Chủ thể củatội giao cho người không đủ điều kiện điểu khiển phương tiện tham gia giao thông đường bộ
Tội giao cho người không đủ điều kiện điều khiển phương tiện tham gia giao thông đường bộ không có trường hợp nào là phạm tội rất nghiêm trọng, đặc biệt nghiêm trọng. Vì vậy, theo quy định tại Điều 12 Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017, những người dưới 16 tuổi không thể là chủ thể của tội phạm này.
Chủ thể của tội phạm này là người từ đủ 16 tuổi trở lên, có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự. Người phạm tội này là chủ sở hữu hoặc người có quyền quản lý của phương tiện giao thông gây thiệt hại cho người khác.
(iv) Khách thể củatội giao cho người không đủ điều kiện điểu khiển phương tiện tham gia giao thông đường bộ
Tội phạm này xâm phạm đến an toàn công cộng, trật tự công cộng; ngoài ra còn xâm phạm đến tính mạng, sức khỏe, tài sản của người khác.
Chủ thể của tội này tuy không trực tiếp điều khiển phương tiện tham gia giao thông nhưng có hành vi giao cho người không đủ điều kiện điều khiển phương tiện tham gia giao thông đường bộ. Đây chính là hành vi xâm phạm đến an toàn công cộng, trật tự công cộng.
Trách nhiệm của người phạm tội giao cho người không đủ điều kiện điều khiển phương tiện tham gia giao thông đường bộ
(i) Trách nhiệm hình sự
Có 03 khung hình phạt đối với tội giao cho người không đủ điều kiện điều khiển phương tiện tham gia giao thông đường bộ tương ứng với 03 khoản được quy định trong Điều 264 Bộ luật Hình sự:
Khung hình phạt thấp nhất (tương ứng với trường hợp tội phạm thỏa mãn các dấu hiệu thuộc khoản 1) là: phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng hoặc phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm;
Khung hình phạt thứ hai (tương ứng với trường hợp tội phạm thỏa mãn các dấu hiệu thuộc khoản 2) là: phạt tiền từ 50.000.000 đồng đến 200.000.000 đồng hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm;
Khung hình phạt cao nhất (tương ứng với trường hợp tội phạm thỏa mãn các dấu hiệu thuộc khoản 3) là: phạt tù từ 02 năm đến 07 năm
(ii) Trách nhiệm dân sự
Khoản 1 Điều 584 Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định: “1. Người nào có hành vi xâm phạm tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, uy tín, tài sản, quyền, lợi ích hợp pháp khác của người khác mà gây thiệt hại thì phải bồi thường, trừ trường hợp Bộ luật này, luật khác có liên quan quy định khác”.
Như vậy, người phạm tội này không phải bồi thường thiệt hại về tính mạng, sức khỏe, tài sản cho người bị hại, vì người trực tiếp gây ra thiệt hại là người điều khiển phương tiện tham gia giao thông.
Vì sao các tổ chức, cá nhân nên sử dụng dịch vụ pháp lý trong trường hợp có liên quan tới tội giao cho người không đủ điều kiện điều khiển phương tiện tham gia giao thông đường bộ:
Oan, sai, tình trạng bức cung, nhục hình trong vụ án hình sự tại Việt Nam hiện nay không còn hiếm. Tình trạng này không chỉ trực tiếp xâm phạm quyền tự do, danh dự, nhân phẩm... mà trong nhiều trường hợp, còn tước đoạt cả quyền được sống của con người;
Ngược lại, Việt Nam không hiếm trường hợp lại diễn ra tình trạng "hành chính hóa" hoặc "dân sự hóa" hành vi vi phạm pháp luật hình sự (tội phạm). Tố giác, tố cáo, tin báo tội phạm của tổ chức, doanh nghiệp, công dân không được giải quyết đúng pháp luật, dẫn đến việc bỏ lọt tội phạm, không truy tố hoặc truy tố không đúng hành vi phạm tội, xâm phạm đến quyền và lợi ích hợp pháp của người bị hại, các đương sự;
Sự tham gia của luật sư trong lĩnh vực hình sự đặc biệt là với vai trò là người bào chữa cho bị can, bị cáo, bảo vệ quyền lợi hợp pháp cho người tố giác (tố cáo), người bị hại, nguyên đơn, bị đơn dân sự trong vụ án hình sự là một trong những biện pháp hữu hiệu nhất để giảm thiểu và ngăn chặn tình trạng trên. Hoạt động bào chữa cho bị can, bị cáo, bảo vệ quyền lợi hợp pháp cho người bị hại không chỉ là hoạt động nghề nghiệp mà còn là trách nhiệm xã hội của người luật sư trong việc duy trì công lý.
Bài viết thực hiện bởi: luật sư Nguyễn Duy Hội - Trưởng Chi nhánh Hà Nội của Công ty Luật TNHH Everest
Xem thêm:
Khuyến nghị của Công ty Luật TNHH Everest:
- Bài viết trong lĩnh vực hình sự (nêu trên) được luật sư, chuyên gia của Công ty Luật TNHH Everest thực hiện nhằm mục đích nghiên cứu khoa học hoặc phổ biến kiến thức pháp luật, hoàn toàn không nhằm mục đích thương mại.
- Bài viết có sử dụng những kiến thức hoặc ý kiến của các chuyên gia được trích dẫn từ nguồn đáng tin cậy. Tại thời điểm trích dẫn những nội dung này, chúng tôi đồng ý với quan điểm của tác giả. Tuy nhiên, quý Vị chỉ nên coi đây là những thông tin tham khảo, bởi nó có thể chỉ là quan điểm cá nhân người viết.
- Trường hợp cần giải đáp thắc mắc về vấn đề có liên quan, hoặc cần ý kiến pháp lý cho vụ việc cụ thể, Quý vị vui lòng liên hệ với chuyên gia, luật sư của Công ty Luật TNHH Everest qua Tổng đài tư vấn pháp luật 1900 6198, E-mail: [email protected], [email protected].
Bình luận