Người nào vì vụ lợi hoặc động cơ cá nhân khác mà lợi dụng chức vụ, quyền hạn làm trái công vụ gây thiệt hại về tài sản từ 10.000.000 đồng đến dưới 200.000.000 đồng hoặc gây thiệt hại khác đến lợi ích của Nhà nước,...
Tội lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành công vụ được quy định tại điều 365, Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).
Căn cứ pháp lý
Điều 356, Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) quy định về tội lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành công vụ như sau:
“(1) Người nào vì vụ lợi hoặc động cơ cá nhân khác mà lợi dụng chức vụ, quyền hạn làm trái công vụ gây thiệt hại về tài sản từ 10.000.000 đồng đến dưới 200.000.000 đồng hoặc gây thiệt hại khác đến lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 01 năm đến 05 năm. (2) Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 05 năm đến 10 năm: (a) Có tổ chức; (b) Phạm tội 02 lần trở lên; (c) Gây thiệt hại về tài sản từ 200.000.000 đồng đến dưới 1.000.000.000 đồng. (3) Phạm tội gãy thiệt hại về tài sản 1.000.000.000 đồng trở lên, thì bị phạt tù từ 10 năm đến 15 năm. (4) Người phạm tội còn bị cấm đảm nhiệm chức vụ nhất định từ 01 năm đến 05 năm, có thể bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng”.
Như vậy, tội lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành công vụ là hành vi lợi dụng chức vụ, quyền hạn làm trái công vụ gây thiệt hại đến lợi ích của Nhà nước, của xã hội, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân do vụ lợi hoặc động cơ cá nhân khác.
Dấu hiệu pháp lý của tội phạm
(i) Khách thể của tội phạm
Tội lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành công vụ trực tiếp xâm hại đến sự hoạt động đúng đắn của các cơ quan, tổ chức; làm cho các cơ quan tổ chức bị suy yếu, mất uy tín, mất lòng tin của nhân dân vào Nhà nước.
(ii) Mặt khách quan của tội phạm được đặc trưng bởi các dấu hiệu sau:
Thủ đoạn phạm tội: Lợi dụng chức vụ, quyền hạn. Tức là người phạm tội sử dụng quyền hạn được giao như là một phương tiện phạm tội để thực hiện tội phạm. Tuy nhiên, tội phạm này hoàn toàn không có dấu hiệu chiếm đoạt tài sản.
Hành vi khách quan của tội phạm là hành vi làm trái công vụ tức là không làm hoặc làm không đúng không đầy đủ nhiệm vụ được giao.
Hậu quả của tội phạm là dấu hiệu bắt buộc, cụ thể là hành vi phạm tội phải gây thiệt hại đến lợi ích của Nhà nước, của xã hội, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, công dân.
Bộ luật hình sự năm 2015 đã nâng hoặc bổ sung mức định lượng giá trị tài sản trong tình tiết định tội và định khung tăng nặng của tội nhận hối lộ. Cụ thể:
- Bổ sung tình tiết định tội “gây thiệt hại về tài sản từ 10.000.000 đồng đến dưới 200.000.000 đồng”.
- Bổ sung tình tiết tăng nặng “gây thiệt hại về tài sản từ 200.000.000 đồng đến dưới 1.000.000.000 đồng” cho khung phạt tù từ 05 năm đến 10 năm
- Bổ sung tình tiết tăng nặng “gây thiệt hại về tài sản 1.000.000.000 đồng trở lê” cho khung phạt tù từ 10 năm đến 15 năm.
(iii) Chủ thể của tội phạm
Chủ thể của tội phạm là người có chức vụ, quyền hạn.
So với tội tham ô tài sản, phạm vi chức vụ, quyền hạn của tội lạm dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành công vụ là rộng hơn (liên quan đến việc quản lý tài sản hoặc không liên quan).
So với tội nhận hối lộ, phạm vi của tội này cũng tương tự, tuy nhiên, khác với tội nhận hối lộ, dấu hiệu cấu thành bắt buộc của tội lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành công vụ phải có hậu quả gây thiệt hại (đến lợi ích của Nhà nước, của xã hội, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân).
(iiii) Mặt chủ quan của tội phạm đặc trưng bởi 2 dấu hiệu:
Lỗi cố ý trực tiếp.
Động cơ phạm tội xuất phát từ động cơ vụ lợi hoặc động cơ cá nhân.
Quy định về hình phạt
Người phạm tội theo quy định tại Khoản 1 Điều 356 thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 01 năm đến 05 năm.
Tình tiết tăng nặng:
(i) Đối với khung phạt tù từ 05 năm đến 10 năm, Bộ luật hình sự năm 2015 đã sửa đổi tình tiết “phạm tội nhiều lần” thành “phạm tội 02 lần trở lên”, đồng thời, lượng hóa tình tiết gây hậu quả nghiêm trọng thành mức “thiệt hại từ 200.000.000 đồng đến dưới 1.000.000.000 đồng”. Cụ thể phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 05 năm đến 10 năm:
- Có tổ chức;
- Phạm tội 02 lần trở lên;
- Gây thiệt hại về tài sản từ 200.000.000 đồng đến dưới 1.000.000.000 đồng.
(ii) Đối với khung hình phạt từ 10 năm đến 15 năm, Bộ luật hình sự năm 2015 đã lượng hóa tình tiết “gây hậu quả rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng” thành mức “gây thiệt hại về tài sản 1.000.000.000 đồng trở lên”.
- Ngoài ra, người phạm tội còn có thể bị cấm đảm nhiệm chức vụ nhất định từ 01 năm đến 05 năm, có thể bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng (Bộ luật hình sự năm 1999 quy định mức phạt tiền từ 3.000.000 đồng đến 30.000.000 đồng).
Khuyến nghị của Công ty Luật TNHH Everest:
- Bài viết trong lĩnh vực hình sự (nêu trên) được luật sư, chuyên gia của Công ty Luật TNHH Everest thực hiện nhằm mục đích nghiên cứu khoa học hoặc phổ biến kiến thức pháp luật, hoàn toàn không nhằm mục đích thương mại.
- Bài viết có sử dụng những kiến thức hoặc ý kiến của các chuyên gia được trích dẫn từ nguồn đáng tin cậy. Tại thời điểm trích dẫn những nội dung này, chúng tôi đồng ý với quan điểm của tác giả. Tuy nhiên, quý Vị chỉ nên coi đây là những thông tin tham khảo, bởi nó có thể chỉ là quan điểm cá nhân người viết.
- Trường hợp cần giải đáp thắc mắc về vấn đề có liên quan, hoặc cần ý kiến pháp lý cho vụ việc cụ thể, Quý vị vui lòng liên hệ với chuyên gia, luật sư của Công ty Luật TNHH Everest qua Tổng đài tư vấn pháp luật 1900 6198, E-mail: [email protected].
Bình luận