Tài sản chung của vợ chồng có là đối tượng của tội trộm cắp tài sản không?

Theo quy định của pháp luật thì tài sản của vợ chồng là tài sản chung hợp nhất và không thuộc đối tượng của tội trộm cắp tài sản

Hỏi: Pham Trung H và Lê Thị Thu P là hai vợ chồng nhưng do bất đồng nên đã ly thân nhưng vẫn ở chung một nhà. Thời gian gần đây H có nhu cầu mua sắm một số đồ cá nhân nên đã yêu câu P đưa cho mình 7.000.000 VNĐ nhưng P không đồng ý. Do đó nhân lúc vợ đi vắng, H đã lẻn vào phòng vợ mở tủ lấy tiền. Đề nghị luật sư tư vấn, trong trường hợp này, H có bị kết tội trộm cắp tài sản hay không? (Trần Hoàng Dũng - Nam Định)

>>> Luật sư tư vấn pháp luật qua tổng đài (24/7) gọi: 1900 6198

Luật gia Vũ Thị Huyền Trang - Tổ tư vấn pháp luật hình sự Công ty Luật TNHH Everest - trả lời:

Điều 138 Bộ luật hình sự năm 1999 sửa đổi, bổ sung năm 2009 quy định về Tội trộm cắp tài sản như sau: "1. Người nào trộm cắp tài sản của người khác có giá trị từ năm trăm nghìn đồng đến dưới năm mươi triệu đồng hoặc dưới năm trăm nghìn đồng nhưng gây hậu quả nghiêm trọng hoặc đã bị xử phạt hành chính về hành vi chiếm đoạt hoặc đã bị kết án về tội chiếm đoạt tài sản, chưa được xoá án tích mà còn vi phạm, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ sáu tháng đến ba năm. 2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ hai năm đến bảy năm: a) Có tổ chức; b) Có tính chất chuyên nghiệp; c) Tái phạm nguy hiểm; d) Dùng thủ đoạn xảo quyệt, nguy hiểm; đ) Hành hung để tẩu thoát; e) Chiếm đoạt tài sản có giá trị từ năm mươi triệu đồng đến dưới hai trăm triệu đồng; g) Gây hậu quả nghiêm trọng. 3. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ bảy năm đến mười lăm năm: a) Chiếm đoạt tài sản có giá trị từ hai trăm triệu đồng đến dưới năm trăm triệu đồng; b) Gây hậu quả rất nghiêm trọng. 4. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ mười hai năm đến hai mươi năm hoặc tù chung thân: a) Chiếm đoạt tài sản có giá trị từ năm trăm triệu đồng trở lên; b) Gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng. 5. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ năm triệu đồng đến năm mươi triệu đồng".

Trong trường hợp này để có thể kết luận H có phạm tội trộm cắp tài sản hay không thì cần xác định xem số tài sản mà H lấy có thuộc đối tượng của tội trộm cắp tài sản hay không. Theo quy định của pháp luật thì tài sản của vợ chồng là tài sản chung hợp nhất và không thuộc đối tượng của tội trộm cắp tài sản. Tuy nhiên trong trường hợp này do anh không nói rõ tài sản mà H lấy trộm có phải là tài sản chung của vợ chống không nên chúng tôi chia ra hai trường hợp như sau:
- Nếu tài sản mà H lấy trộm là tài sản riêng của P thì H sẽ bị kết tội trộm cắp tài sản theo khoản 1 điều 138
- Nếu tài sản mà H lấy trộm là tài sản chung của vợ chồng thì H sẽ không bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội trộm cắp tài sản.

Khuyến nghị:
  1. Để có ý kiến tư vấn chính xác và cụ thể hơn, Quý vị vui lòng liên hệ với các Luật sư chuyên gia của Công ty Luật TNHH Everest qua Tổng đài tư vấn pháp luật 1900 6198, hoặc E-mail: [email protected].
  2. Nội dung bài tư vấn pháp luật hình sự mà Công ty Luật TNHH Everest cung cấp, Quý vị chỉ nên xem như nguồn tài liệu tham khảo.
  3. Tại thời điểm quý Vị đọc bài viết này, các điều luật chúng tôi viện dẫn có thể đã hết hiệu lực, hoặc đã được sửa đổi, bổ sung; các thông tin trong tình huống là cá biệt. Do đó, chúng tôi không đảm bảo những thông tin này có thể áp dụng cho mọi trường hợp, mọi đối tượng, ở mọi thời điểm.