Nghị án được quy định tại Điều 326 Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2016
Nghị án là hoạt động tố tụng do Hội đồng xét xử thực hiện trong quá trình xét xử vụ án bằng cách Hội đồng xét xử vào phòng nghị án thảo luận và quyết định giải quyết các vấn đề có ý nghĩa quan trọng của vụ án. Để đảm bảo thực hiện nguyên tắc Thẩm phán và Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật, Điều luật quy định chỉ Thẩm phán và Hội thẩm mới có quyền nghị án. Hội đồng xét xử tiến hành việc nghị án trong phòng riêng. Không ai được tiếp xúc với Hội đồng xét xử, không được vào phòng nghị án cũng như có những tác động khác lên quá trình nghị án.
Căn cứ pháp lý về nghị án
“Điều 326. Nghị án
1.Chỉ Thẩm phán và Hội
thẩm mới có quyền nghị án. Việc nghị án phải được tiến
hành tại phòng nghị án.
Chủ tọa phiên tòa chủ
trì việc nghị án có trách nhiệm đưa ra từng vấn đề
của vụ án phải được giải quyết
để Hội đồng xét xử thảo luận, quyết định…Người có ý kiến
thiểu sổ có quyền trình bày ý kiên của mình băng văn
bản và được đưa vào
hồ sơ vụ án.
2.Việc nghị án chỉ được
căn cứ vào những chứng cứ, tài liệu đã được thẩm
tra tại phiên tòa,trên cơ sở xem xét đầy
đủ, toàn diện chứng cứ của vụ án, ý kiến của Kiểm sát viên, bị
cáo, ngươi bào chữa, người tham gia tố
tụng khác.
3. Các vấn
đề của vụ án phải được giải quyết khi nghị án gồm:
a) Vụ án có thuộc trường họp tạm đình chỉ
hoặc thuộc trường hợp trả hồ sơ để
điều tra bổ sung hay
không;
b) Tính hợp pháp của những chứng cứ, tài liệu do
Cơ quan điều tra, Điều
tra viên, Viện kiểm sát, Kiểm sát viên
thu thập; do luật sư, bị can, bị cáo, người tham gia tố
tụng khác cung cấp;
…
5. Trường hợp vụ án có nhiều tình tiết phức tạp
thì Hội đồng xét xử có thể quyết định kéo dài thời gian nghị án nhưng không quá
07 ngày kể từ ngày kết thúc tranh luận tại
phiên tòa. Hội đồng xét xử
phải thông báo cho những người có mặt tại
phiên tòa và người tham gia tố tụng vắng
mặt tại phiên tòa biết giờ, ngày, tháng,
năm và địa điểm tuyên án.
6. Kết thúc việc nghị án, Hội đồng xét xử phải
quyết định một trong các vấn đề:
a) Ra bản án và tuyên án;
…
Hội đồng xét xử phải
thông báo cho những người có mặt tại phiên tòa và người tham gia tố
tụng vắng mặt tại phiên tòa về các quyết định tại điểm
c và điểm d khoản này.
7. Trường hợp phát hiện có việc bỏ lọt tội phạm
thì Hội đồng xét xử quyết định việc khởi tố vụ án theo quy định tại Điều
18 và Điều 153 của Bộ luật này.”
Thẩm quyền nghị án và các vấn đề phải giải quyết quyết khi nghị án
Để đảm bảo thực hiện nguyên tắc Thẩm phán và Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật, Điều luật quy định chỉ Thẩm phán và Hội thẩm mới có quyền nghị án. Hội đồng xét xử tiến hành việc nghị án trong phòng riêng. Không ai được tiếp xúc với Hội đồng xét xử, không đượcvào phòng nghị án cũng như có những tác động khác lên quá trình nghị án.
Khi
nghị án, Hội thẩm ngang quyền với Thẩm phán. Các thành viên Hội đồng xét xử phải
giải quyết tất cả các vấn đề của vụ án bằng cách biểu quyết theo đa số
về từng vấn đề một; cụ thể là các vấn đề
chính sau:
-Vụ
án có thuộc trường hợp tạm đình chỉ hoặc thuộc trường hợp trả hồ sơ để điều tra
bổ sung hay không;
-Tính
hợp pháp của những chứng cứ, tài liệu do Cơ quan điều tra, Điều tra viên, Viện
kiểm sát, Kiểm sát viên thu thập; do luật sư, bị can, bị
cáo, người tham gia tố tụng khác cung cấp;
-Có
hay không có căn cứ kết tội bị cáo. Trường hợp đủ căn cứ kết tội thì phải xác định
rõ điểm, khoản, điều của Bộ luật hình sự được áp dụng;
-Hình
phạt, biện pháp tư pháp áp dụng đổi với bị cáo; trách nhiệm bồi thường thiệt hại;
vấn đề dân sự trong vụ án hình sự;
-Bị
cáo có thuộc trường hợp miễn trách nhiệm hình sự, miễn
hình phạt hay không;
-Án
phí hình sự, án phí dân sự; xử lý vật chứng; tài sản bị kê biên, tài khoản bị
phong tỏa;
-Tính
hợp pháp của hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiềm sát viên, người
bào chữa trong quá trình điều tra,
truy tô, xét xử;
-Kiến
nghị phòng ngừa tội phạm, khắc phục vi phạm.
Chủ tọa phiên tòa điều khiển việc nghị án, nêu các vấn đề cần giải quyết để Hội đồng xét xử thảo luận và biểu quyết. Điều luật chỉ quy định Thẩm phán biểu quyết sau cùng chứ không phải là phát biểu ý kiến sau cùng. Cho nên, trong khi nghị án thứ tự phát biểu, thảo luận là không bắt buộc. Trọng trường hợp Hội đồng xét xử sơ thẩm chỉ có một Thẩm phán và hai Hội thẩm, thì khi phát biểu (hoặc khi biểu quyết) các Hội thẩm phát biểu (hoặc biểu quyết) trước, Thẩm phán chủ tọa phiên tòa phát biểu (hoặc biểu quyết) sau. Trong trường hợp Hội đồng xét xử sơ thẩm có hai Thẩm phán và ba Hội thẩm, thì các hội thẩm phát biểu (hoặc biểu quyết) trước, đến Thẩm phán không phải là chủ tọa phiên tòa và sau cùng là Thẩm phán chủ tọa phiên tòa phát biểu (hoặc biểu quyết).
Thủ tục sau khi biểu quyết
Thành viên của Hội đồng xét xử có ý kiến thiểu số thì có quyền (không phải là nghĩa vụ) trình bày ý kiến của mình bằng văn bản riêng và được đưa vào hồ sơ vụ án. Trong biên bản nghị án phải ghi lại đầy đủ các ý kiến đã thảo luận về từng vấn đề một và quyết định theo đa số của Hội đồng xét xử về từng vấn đề đó. Các thành viên Hội đồng xét xử phải ký vào biên bản nghị án tại phòng nghị án trước khi tuyên án.
Lập biên bản khi nghị án
Trường hợp vụ án có nhiều tình tiết phức tạp thì Hội đồng xét xử có thể quyết định kéo dài thời gian nghị án nhưng không quá 07 ngày kể từ ngày kết thúc tranh luận tại phiên tòa. Hội đồng xét xử phải thông báo cho những người có mặt tại phiên tòa và người tham gia tố tụng vắng mặt tại phiên tòa biết giờ, ngày, tháng, năm và địa điểm tuyên án.
Các vấn đề cần giải quyết khi kết thúc nghị án
Kết thúc việc nghị án, Hội đồng xét xử phải quyết định và thông báo cho những người có mặt tại phiên tòa và người tham gia tố tụng vắng mặt tại phiên tòa về các quyết định tại điểm c và điểm d khoản này. Các quyết định Hội đồng xét xử có thể ra:Bản án và tuyên án;Trở lại việc xét hỏi và tranh luận nếu có tình tiết vụ án chưa được xét hỏi, chưa được làm sáng tỏ;Trả hồ sơ vụ án để Viện kiểm sát điều tra bổ sung; yêu cầu Viện kiểm sát bổ sung tài liệu, chứng cứ;Tạm đình chỉ vụ án.
Nếu phát hiện có việc bỏ lọt tội phạm thì Hội đồng xét xử quyết định việc khởi tố vụ án theo quy định tại Điều 18 và Điều 153 của Bộ luật này.
Khuyến nghị của Công ty Luật TNHH Everest:
- Bài viết được luật sư, chuyên gia của Công ty Luật TNHH Everest thực hiện nhằm mục đích nghiên cứu khoa học hoặc phổ biến kiến thức pháp luật, hoàn toàn không nhằm mục đích thương mại.
- Bài viết có sử dụng những kiến thức hoặc ý kiến của các chuyên gia được trích dẫn từ nguồn đáng tin cậy. Tại thời điểm trích dẫn những nội dung này, chúng tôi đồng ý với quan điểm của tác giả. Tuy nhiên, quý Vị đây chỉ nên coi đây là những thông tin tham khảo, bởi nó có thể chỉ là quan điểm cá nhân người viết.
- Trường hợp cần giải đáp thắc mắc về vấn đề có liên quan, hoặc cần ý kiến pháp lý cho vụ việc cụ thể, Quý vị vui lòng liên hệ với chuyên gia, luật sư của Công ty Luật TNHH Everest qua Tổng đài tư vấn pháp luật 19006198, E-mail: [email protected].
Bình luận