Dâm ô tức là có hành vi bỉ ổi đối với người khác, tuy không phải là hành vi giao cấu nhưng cũng nhằm thoả mãn tình dục của mình hoặc khêu gợi bản năng tình dục của người đó.
Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017 quy định về tội dâm ô đối với người dưới 16 tuổi như sau:
"1. Người nào đủ 18 tuổi trở lên mà có hành vi dâm ô đối với người dưới 16 tuổi không nhằm mục đích giao cấu hoặc không nhằm thực hiện các hành vi quan hệ tình dục khác, thì bị phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm.
2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 03 năm đến 07 năm: (a) Phạm tội có tổ chức; (b) Phạm tội 02 lần trở lên; (c) Đối với 02 người trở lên; (d) Đối với người mà người phạm tội có trách nhiệm chăm sóc, giáo dục, chữa bệnh; (đ) Gây rối loạn tâm thần và hành vi của nạn nhân mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 31% đến 60%; (e) Tái phạm nguy hiểm.
3. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 07 năm đến 12 năm: (a) Gây rối loạn tâm thần và hành vi của nạn nhân mà tỷ lệ tổn thương cơ thể 61% trở lên; (b) Làm nạn nhân tự sát.
4. Người phạm tội còn có thể bị cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm."(Điều 146 Bộ luật Hình sự)
Cấu thành tội phạm của tội dâm ô đối với người dưới 16 tuổi
1. Khách thể của tội dâm ô đối với người dưới 16 tuổi
Tội phạm dâm ô đối với người dưới 16 tuổi đã xâm phạm đến quyền được bảo vệ về thân thể, nhân phẩm, danh dự và sự phát triển bình thường của người bị hại dưới 16 tuổi.
2. Chủ thể của tội dâm ô đối với người dưới 16 tuổi
Chủ thể của dâm ô đối với người dưới 16 tuổi là chủ thể thường, có thể là nam hoặc nữ, nhưng chủ yếu là nam và là người từ đủ 18 tuổi trở lên, và có năng lực trách nhiệm hình sự.
3. Mặt khách quan của tội dâm ô đối với người dưới 16 tuổi
Mặt khách quan của tội dâm ô đối với người dưới 16 tuổi thể hiện qua các dấu hiệu sau:Đó là hành vi tình dục nhưng không phải là hành vi giao cấu. Những hành vi đó có đặc điểm thoả mãn hoặc khiêu gợi, kích thích nhu cầu tình dục; hành vi này được thể hiện đa dạng như:Có hành vi kích dục đối với trẻ em như sờ, bóp hoặc dùng các bộ phận nhạy cảm về tình dục cọ sát vào cơ thể hoặc bộ phận sinh dục của trẻ em; có hành vi buộc trẻ em sờ, bóp, cọ sát ... vào những bộ phận kích thích tình dục hoặc bộ phận sinh dục của người phạm tội hoặc của người khác.
Các hành vi của người phạm tội dâm ô đối với người dưới 16 tuổi phải là chưa hoặc không có mục đích giao cấu. Nếu có ý định giao cấu hoặc thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác với nạn nhân nhưng không giao cấu hoặc không thực hiện hành vi đó được thì không phải là hành vi dâm ô mà tùy trường hợp cụ thể mà người phạm tội bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội hiếp dâm người dưới 16 tuổi, tội cưỡng dâm người từ 13 đến dưới 16 tuổi hoặc tội giao cấu với người dưới 16 tuổi. Trẻ em bị dâm ô có thể đồng tình, tự nguyện hoặc bị cưỡng éo thực hiện hành vi dâm ô với người phạm tội. Việc tự nguyện của nạn nhân không phải là căn cứ loại trừ trách nhiệm hình sự đối với người phạm tọi bởi vì độ tuổi và nhận thức của nạn nhân rất non nớt, chưa được xem là trưởng thành để đủ chín chắn nhìn nhận được việc bản thân đang bị xâm hại. Bởi vậy việc xử lý hành vi dâm ô không xem xét về yếu tố tự nguyện của nạn nhân mà điều quan trọng nhất là độ tuổi của nạn nhân.
Đối tượng của hành vi dâm ô ở tội này là trẻ em. Trẻ em có thể bị hành vi dâm ô tác động đến thân thể nhưng cũng có thể chỉ bị chứng kiến những hành vi dâm ô.
Tội dâm ô đối với người dưới 16 tuổi là tội có cấu thành hình thức, nghĩa là không căn cứ vào hậu quả và những tổn hại của nạn nhân từ hành vi dâm ô gây ra mà chỉ xét về hành vi vi phạm của người thực hiện tội phạm để xác định trách nhiệm hình sự. Trường hợp người có ý định dâm ô nhưng chưa có hành vi cụ thể nào thể hiện ý định dâm ô thì không cấu thành tội dâm ô đối với người dưới 16 tuổi.
4. Mặt chủ quan của tội dâm ô đối với người dưới 16 tuổi
Người phạm tội dâm ô đối với người dưới 16 tuổi thực hiện hành vi phạm tội với lỗi cố ý.
Hình phạt đối với người phạm tội dâm ô đối với người dưới 16 tuổi
Tùy vào mức độ nguy hiểm và hậu quả của hành vi phạm tội gây ra mà người phạm tội dâm ô đối với người dưới 16 tuổi có thể sẽ bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo 01 trong 04 khung hình phạt tương ứng với 01 trong 04 khoản của Điều 246 Bộ luật Hình sự, cụ thể:
(i) Khung 1: Phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm đối với trường hợp có hành vi được mô tả trong Khoản 1 Điều 246 Bộ luật Hình sự: "có hành vi dâm ô đối với người dưới 16 tuổi không nhằm mục đích giao cấu hoặc không nhằm thực hiện các hành vi quan hệ tình dục khác".
(ii) Khung 2: Phạt tù từ 03 năm đến 07 năm nếu người phạm tội có đầy đủ các hành vi được nêu trong Khoản 1 và thuộc một trong các trường hợp sau:Phạm tội có tổ chức;Phạm tội 02 lần trở lên;Đối với 02 người trở lên;Đối với người mà người phạm tội có trách nhiệm chăm sóc, giáo dục, chữa bệnh;Gây rối loạn tâm thần và hành vi của nạn nhân mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 31% đến 60%;Tái phạm nguy hiểm.
(iii) Khung 3:Phạt tù từ 07 năm đến 12 năm nếu có các hành vi được nêu trong Khoản 1 và thuộc 01 trong các trường hợp:Gây rối loạn tâm thần và hành vi của nạn nhân mà tỷ lệ tổn thương cơ thể 61% trở lên;Làm nạn nhân tự sát.
Vì sao các tổ chức, cá nhân nên sử dụng dịch vụ pháp lý trong trường hợp có liên quan tới tội dâm ô đối với người dưới 16 tuổi:
Oan, sai, tình trạng bức cung, nhục hình trong vụ án hình sự tại Việt Nam hiện nay không còn hiếm. Tình trạng này không chỉ trực tiếp xâm phạm quyền tự do, danh dự, nhân phẩm... mà trong nhiều trường hợp, còn tước đoạt cả quyền được sống của con người;
Ngược lại, Việt Nam không hiếm trường hợp lại diễn ra tình trạng "hành chính hóa" hoặc "dân sự hóa" hành vi vi phạm pháp luật hình sự (tội phạm). Tố giác, tố cáo, tin báo tội phạm của tổ chức, doanh nghiệp, công dân không được giải quyết đúng pháp luật, dẫn đến việc bỏ lọt tội phạm, không truy tố hoặc truy tố không đúng hành vi phạm tội, xâm phạm đến quyền và lợi ích hợp pháp của người bị hại, các đương sự;
Sự tham gia của luật sư trong lĩnh vực hình sự đặc biệt là với vai trò là người bào chữa cho bị can, bị cáo, bảo vệ quyền lợi hợp pháp cho người tố giác (tố cáo), người bị hại, nguyên đơn, bị đơn dân sự trong vụ án hình sự là một trong những biện pháp hữu hiệu nhất để giảm thiểu và ngăn chặn tình trạng trên. Hoạt động bào chữa cho bị can, bị cáo, bảo vệ quyền lợi hợp pháp cho người bị hại không chỉ là hoạt động nghề nghiệp mà còn là trách nhiệm xã hội của người luật sư trong việc duy trì công lý.
Xem thêm:
Khuyến nghị của Công ty Luật TNHH Everest:
- Bài viết trong lĩnh vực hình sự (nêu trên) được luật sư, chuyên gia của Công ty Luật TNHH Everest thực hiện nhằm mục đích nghiên cứu khoa học hoặc phổ biến kiến thức pháp luật, hoàn toàn không nhằm mục đích thương mại.
- Bài viết có sử dụng những kiến thức hoặc ý kiến của các chuyên gia được trích dẫn từ nguồn đáng tin cậy. Tại thời điểm trích dẫn những nội dung này, chúng tôi đồng ý với quan điểm của tác giả. Tuy nhiên, quý Vị chỉ nên coi đây là những thông tin tham khảo, bởi nó có thể chỉ là quan điểm cá nhân người viết.
- Trường hợp cần giải đáp thắc mắc về vấn đề có liên quan, hoặc cần ý kiến pháp lý cho vụ việc cụ thể, Quý vị vui lòng liên hệ với chuyên gia, luật sư của Công ty Luật TNHH Everest qua Tổng đài tư vấn pháp luật 1900 6198, E-mail: [email protected].
Bình luận