Giật được tài sản không giá trị có phạm tội cướp giật tài sản không?

Về lý luận thì tội cướp giật tài sản là tội phạm có cấu thành vật chất, do đó, chỉ khi nào người phạm tội giật được tài sản thì tội phạm mới hoàn thành, nếu có hành giật nhưng chưa giật được tài sản thì thuộc trường hợp phạm tội chưa đạt

Hỏi: Ngày 27/10/2016, mẹ tôi đến cửa hàng của cô H để thu nợ. Đối tượng Trần Hoàng T đã quan sát việc mẹ tôi để tiền trong túi xách. Do đó đợi mẹ tôi đi khỏi cửa hàng, T đã đi theo. Khi đi đến đoạn đường vắng, T đã nhanh chóng tiếp cận và giật túi của mẹ tôi rồi tẩu thoát. Tuy nhiên khi mở túi ra kiểm tra thì T không hề thấy số tiền đâu mà chỉ có vài vật dụng cá nhân. Thực ra trước khi ra khỏi cửa hàng mẹ thôi đã đổi ý cho bọc tiền vào áo chống nắng và cất vào cốp xe nên T vẫn nghĩ rằng mẹ tôi để tiền trong túi. Đề nghi luật sư tư vấn trong trường hợp này, mẹ tôi có thể tố cáo T tội cướp giật tài sản không khi T không cướp được đồ gì giá trị của mẹ tôi? (Nguyễn Thanh Tùng - Hải Dương)

>>>Luật sư tư vấn pháp luật qua tổng đài (24/7) gọi: 1900 6198

Luật gia Vũ Thị Huyền Trang - Tổ tư vấn pháp luật hình sự của Công ty Luật TNHH Everest - trả lời:

Điều 136 Bộ luật Hình sự năm 1999 sửa đổi, bổ sung năm 2009 quy đinh về Tội cướp giật tài sản như sau: "1. Người nào cướp giật tài sản của người khác, thì bị phạt tù từ một năm đến năm năm. 2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ ba năm đến mười năm: a) Có tổ chức; b) Có tính chất chuyên nghiệp; c) Tái phạm nguy hiểm; d) Dùng thủ đoạn nguy hiểm; đ) Hành hung để tẩu thoát; e) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ thương tật từ 11% đến 30%; g) Chiếm đoạt tài sản có giá trị từ năm mươi triệu đồng đến dưới hai trăm triệu đồng; h) Gây hậu quả nghiêm trọng. 3. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ bảy năm đến mười lăm năm: a) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ thương tật từ 31% đến 60%; b) Chiếm đoạt tài sản có giá trị từ hai trăm triệu đồng đến dưới năm trăm triệu đồng; c) Gây hậu quả rất nghiêm trọng. 4. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ mười hai năm đến hai mươi năm hoặc tù chung thân: a) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ thương tật từ 61% trở lên hoặc làm chết người; b) Chiếm đoạt tài sản có giá trị từ năm trăm triệu đồng trở lên; c) Gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng. 5. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ mười triệu đồng đến một trăm triệu đồng".

Trong trường hợp này mẹ anh có thể tố cáo T tội cướp giật tài sản. Bởi vì dù điều luật không quy định, nhưng về lý luận thì tội cướp giật tài sản là tội phạmcấu thành vật chất, do đó, chỉ khi nào người phạm tội giật được tài sản thì tội phạm mới hoàn thành, nếu có hành giật nhưng chưa giật được tài sản thì thuộc trường hợp phạm tội chưa đạt. Cho nên trường hợp này T đã giật được túi xách của mẹ anh vì T vẫn nghĩ rằng tiền nằm trong túi xách đó và việc mẹ anh để tiền trong cốp nằm ngoài dự liệu của T nên T đã hoàn thành tội cướp giật tài sản.

Quan trọng hơn tội cướp giật tài sản là tội phạm nghiêm trọng nên nhà làm luật không quy định mức tài sản bị chiếm đoạt là dấu hiệu cấu thành tội phạm như đối với các tội khác như tội trộm cắp, tội công nhiên chiếm đoạt, tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản... Do đó người phạm tội cướp giật tài sản có giá trị lớn hay chỉ có giá trị rất nhỏ (hoa tai giả, dây chuyền giả) vần là phạm tội cướp giật tài sản. Vì thế dù T chỉ giật được chiếc túi xách rỗng thì T vẫn phạm tội cướp giật tài sản.

Khuyến nghị:
  1. Để có ý kiến tư vấn chính xác và cụ thể hơn, Quý vị vui lòng liên hệ với các Luật sư chuyên gia của Công ty Luật TNHH Everest qua Tổng đài tư vấn pháp luật 1900 6198, hoặc E-mail: [email protected].
  2. Nội dung bài tư vấn pháp luật hình sự mà Công ty Luật TNHH Everest cung cấp, Quý vị chỉ nên xem như nguồn tài liệu tham khảo.
  3. Tại thời điểm quý Vị đọc bài viết này, các điều luật chúng tôi viện dẫn có thể đã hết hiệu lực, hoặc đã được sửa đổi, bổ sung; các thông tin trong tình huống là cá biệt. Do đó, chúng tôi không đảm bảo những thông tin này có thể áp dụng cho mọi trường hợp, mọi đối tượng, ở mọi thời điểm.