Tái thẩm là một thủ tục đặc biệt trong tố tụng hình sư dựa trên sự xuất hiện của tình tiết mới, việc xác định, chứng minh tình tiết mới ấy được quy định tại điều 399 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 số 101/2015/QH13.
Thứ nhất, quy định tại Điều 399 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015
"Điều 399. Thông báo và xác minh những tình tiết mới được phát hiện
1. Người bị kết án, cơ quan, tổ chức và mọi cá nhân có quyền phát hiện tình tiết mới của vụ án và thông báo kèm theo các tài liệu liên quan cho Viện kiểm sát hoặc Tòa án. Trường hợp Tòa án nhận được thông báo hoặc tự mình phát hiện tình tiết mới của vụ án thì phải thông báo ngay bằng văn bản kèm theo các tài liệu liên quan cho Viện trưởng Viện kiểm sát có thẩm quyền kháng nghị tái thẩm. Viện trưởng Viện kiểm sát có thẩm quyền kháng nghị tái thẩm ra quyết định xác minh những tình tiết đó.
2. Viện kiểm sát phải xác minh những tình tiết mới; khi xét thấy cần thiết, Viện trưởng Viện kiểm sát có thẩm quyền kháng nghị tái thẩm yêu cầu Cơ quan điều tra có thẩm quyền xác minh tình tiết mới của vụ án và chuyển kết quả xác minh cho Viện kiểm sát.
3. Khi tiến hành xác minh tình tiết mới của vụ án, Viện kiểm sát, Cơ quan điều tra có quyền áp dụng các biện pháp điều tra tố tụng theo quy định của Bộ luật này."
Thứ hai, bình luận về Điều 399 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015
1. Xuất phát từ nguyên tắc dân chủ trong quá trình giải quyết các vụ án hình sự, Bộ luật Tố tụng hình sự của nước ta quy định người bị kết án, cơ quan, tổ chức và mọi công dân đều có quyền phát hiện những tình tiết.mới của vụ án và thông báo cho Viện kiểm sát hoặc Tòa án.
2. Cho tới nay, ở nước ta chưa có quy định các bản án và quyết định đã có hiệu lực pháp luật cùa Tòa án phải được công bố công khai trên các phương tiện thông tin đại chúng. Tuy nhiên, nếu từ một nguồn thông tin nào đó, một công dân, tô chức, cơ quan nhà nước biết được vụ án được giải quyết không đúng pháp luật mà nguyên nhân của nó là trong quá trình xét xử Tòa án đã không biết và không sử dụng một tình tiết nào đó thì cá nhân và tổ chức nói trên có quyền trực tiếp hoặc thông qua đơn thông báo cho Tòa án hoặc Viện kiêm sát. Cơ quan tiếp nhận thông tin của công dân và tổ chức về các tình tiết mới được phát hiện phải lập biên bản và chuyển đến Viện kiểm sát có thẩm quyền xác minh và ra kháng nghị theo thủ tục tái thẩm.
3. Luật tố tụng hình sự nước ta từ trước tới nay đều có các quy định giao thẩm quyền kháng nghị tái thẩm cho Viện kiêm sát bởi lẽ chỉ có Viện kiểm sát mới có điều kiện xác minh về những tình tiết mới được phát hiện. Khi nhận được thông báo của công dân, tổ chức, cơ quan nhà nước khác về những tình tiết mới được phát hiện, Viện trưởng Viện kiểm sát ra quyết định cử cán bộ (thường là Kiêm sát viên thuộc bộ phận kiểm sát điều tra và thực hành quyền công tố hoặc Điều tra viên cùa Viện kiêm sát) đi xác minh những tình tiêt đó. Quá trình xác minh những tình tiết mới được phát hiện thực chất cũng là một hoạt động điều tra do Viện kiểm sát tiến hành nhằm xác định có hay không có tình tiết mới đó và giá trị pháp lí của những tình tiết mới đó có thể làm thay đổi cơ bản nội dung của bản án hoặc quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án hay không. Kết quả xác minh những tình tiết mới phải được thể hiện bằng văn bản báo cáo với Viện trưởng Viện kiểm sát có thẩm quyền kháng nghị theo trình tự tái thẩm đối với bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án và người này quyết định kháng nghị hay không kháng nghị theo trình tự tái thẩm đối với bản án, quyết định nêu trên.
4. Khi thấy có một trong bốn căn cứ để kháng nghị thẹo thủ tục tái thẩm quy định tại Điều 389 Bộ luật Tố tụng hình sự, Viện trưởng Viện kiểm sát có thẩm quyền ra quyết định kháng nghị tái thẩm và chuyển toàn bộ hồ sơ vụ án cùng quyết định kháng nghị tái thẩm cho Tòa án có thẩm quyền. Trong trường hợp không có căn cứ để kháng nghị theo thủ tục tái thẩm thì Viện trưởng Viện kiêm sát trả lời bằng văn bản cho cơ quan, tổ chức, người đã có thông báo về tình tiết mới được phát hiện biêt rõ lí do của việc không kháng nghị.
Khuyến nghị của công ty Luật Everest:
- Bài viết được luật sư, chuyên gia của Công ty Luật TNHH Everest thực hiện nhằm mục đích nghiên cứu khoa học hoặc phổ biến kiến thức pháp luật, hoàn toàn không nhằm mục đích thương mại.
- Bài viết có sử dụng những kiến thức hoặc ý kiến của các chuyên gia được trích dẫn từ nguồn đáng tin cậy. Tại thời điểm trích dẫn những nội dung này, chúng tôi đồng ý với quan điểm của tác giả. Tuy nhiên, quý vị đây chỉ nên coi đây là những thông tin tham khảo, bởi nó có thể chỉ là quan điểm cá nhân người viết.
- Trường hợp cần giải đáp thắc mắc về vấn đề có liên quan, hoặc cần ý kiến pháp lý cho vụ việc cụ thể, Quý vị vui lòng liên hệ với chuyên gia, luật sư của Công ty Luật TNHH Everest qua Tổng đài tư vấn pháp luật 19006198, E-mail: [email protected], [email protected].
Bình luận