Thu thập chứng cứ là một giai đoạn của quá trình chứng minh. Nếu không có thu thập chứng cứ thì cũng không có kiểm tra, đánh giá và sử dụng chứng cứ. Các cơ quan tiến hành tố tụng có thẩm quyền thu thập chứng cứ.
Thu thập chứng cứ là hoạt động phát hiện, ghi nhận, thu giữ và bảo quản chứng cứ. Để sử dụng chứng cứ với tính chất là căn cứ xác định có hay không có hành vi phạm tội, người thực hiện hành vi phạm tội, cũng như những tình tiết khác cần thiết cho việc giải quyết đúng đắn vụ án hình sự, trước hết cần phải thu thập nó. Vì vậy, có thể nói, thu thập chứng cứ là một bước quan trọng của quá trình chứng minh.
Căn cứ pháp lý về thu thập chứng cứ
“Điều 88. Thu thập chứng cứ
1. Để thu thập chứng cứ, cơ quan có
thẩm quyền tiến hành tổ tụng có quyển tiến hành hoạt động thu thập chứng cứ
theo quy định của Bộ luật này; yêu cầu cơ quan, tổ chức, cá nhân cung cấp chứng
cứ, tài liệu, đồ vật, dữ liệu điện tử, trình bày những tình tiết làm sáng tỏ vụ án.
2. Để thu thập chứng cứ, người bào chữa
có quyền gặp người mà mình bào chữạ, bị hại, người làm chứng và những người
khác biết về vụ án để hỏi, nghe họ trình bày về những vấn để liên quan đến vụ án; đề
nghị cơ quan, tổ chức, cá nhân cung cấp tài liệu, đồ vật, dữ liệu điện tử liên
quan đến việc bào chữa.
3. Những người tham gia tố tụng khác, cơ quan, tổ chức hoặc bất cứ cá nhân nào đểu có thể đưa ra chứng cứ, tài liệu, đồ vật, dữ liệu điện tử và trình bày những vấn đề có liên quan đến vụ án.
4. Khi tiếp nhận chứng cứ, tài liệu, đồ vật, dữ liệu điện tử liên quan đến vụ án do những người quy định tại khoản 2 và khoản 3 Điều này cung cấp, cơ quan có tham quyền tiến hành tổ tụng phải lập biên bản giao nhận và kiểm tra, đánh giá theo quy định của Bộ luật này.
5. Trong thời hạn 05 ngày kể từ ngày lập biên bản về hoạt động điều tra, thu thập, nhận được tài liệu liên quan đến vụ án mà Kiểm sát viên không trực tiếp kiểm sát theo… Việc giao, nhận tài liệu, biên bản được lập biên bản theo quy định tại Điểu 133 của Bộ luật này.”
Cách thu thập chứng cứ và sử dụng chứng cứ
Để thu thập chứng cứ, tùy theo giai đoạn tố tụng, cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng (Cơ quan điều tra, Cơ quan khác được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án) có quyền tiến hành các hoạt động tố tụng theo quy định của Bộ luật Tố tụng Hình sự (BLTTHS).
Để sử dụng chứng cứ với tính chất là căn cứ xác định có hay không có hành vi phạm tội, người thực hiện hành vi phạm tội, cũng như những tình tiết khác cần thiết cho việc giải quyết đúng đắn vụ án hình sự, trước hết cần phải thu thập nó. Vì vậy, có thể nói, thu thập chứng cứ là một bước quan trọng của quá trình chứng minh.
Để thu thập chứng cứ, Cơ quan điều tra, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra có quyền thực hiện các hoạt động điều tra, như khám xét, thu giữ, tạm giữ, đồ vật, tài liệu; khám nghiệm hiện trường, khám nghiệm tử thi; xem xét dấu vết của thân thể; đối chất; nhận dạng; nhận biết giọng nói, thực nghiệm điều tra; áp dụng các biện pháp điều tra tố tụng đặc biệt theo quy định của BLTTHS…
Để thu thập chứng cứ, trong những trường hợp cần thiết, Viện kiểm sát cũng có thể trực tiếp tiến hành một số hoạt động điều tra theo quy định của BLTTHS
Quyền thu thập chứng cứ
So với BLTTHS năm 2003, để phù hợp với yêu cầu tăng cường tranh tụng, BLTTHS năm 2015 quy định quyền thu thập chứng cứ của người bào chữa và cách thức người bào chữa thu thập chứng cứ, gồm: gặp thân chủ, bị hại, người làm chứng, những người biết về vụ án để hỏi và nghe họ trình bày về những vấn đề liên quan đến vụ án; đề nghị cơ quan, tổ chức, cá nhân cung cấp tài liệu, đồ vật, dữ liệu điện tử và các tình tiết liên quan đến việc bào chữa.
Những người tham gia tố tụng khác, cơ quan, tổ chức hoặc bất cứ cá nhân nào đều có thể đưa ra chứng cứ, tài liệu, đồ vật, dữ liệu điện tử và trình bày những vấn đề có liên quan đến vụ án.
Thủ tục tiếp nhận chứng cứ của cơ quan có thẩm quyền
Khi tiếp nhận chứng cứ, tài liệu, đồ vật, dữ liệu điện tử liên quan đến vụ án do người tham gia tố tụng, cơ quan, tổ chức, cá nhân khác cung cấp, cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng phải lập biên bản giao nhận và kiểm tra, đánh giá theo quy định của BLTTHS.
Trong thời hạn 05 ngày kể từ ngày lập biên bản về hoạt động điều tra, thu thập, nhận được tài liệu liên quan đến vụ án mà Kiểm sát viên không trực tiếp kiểm sát theo quy định của BLTTHS thì Cơ quan điều tra, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra có trách nhiệm chuyển biên bản, tài liệu này cho Viện kiểm sát để kiểm sát việc lập hồ sơ vụ án. Trường hợp do trở ngại khách quan thì thời hạn này có thể kéo dài nhưng không quá 15 ngày. Trong thời hạn 03 ngày, Viện kiểm sát đóng dấu bút lục và sao lưu biên bản, tài liệu hồ sơ kiểm sát và bàn giao nguyên trạng tài liệu, biên bản đó cho cơ quan điều tra, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra. Việc giao, nhận tài liệu, biên bản được lập biên bản theo quy định tại Điều 133 BLTTHS. Đây là cơ sở pháp lý quan trọng để tăng cường hiệu quả công tác kiểm sát hoạt động điều tra, lập hồ sơ vụ án của Điều tra viên, đồng thời là căn cứ để Viện kiểm sát thực hiện tốt hơn quyền công tố của mình trong quá trình giải quyết vụ án hình sự.
Khuyến nghị:
- Bài viết được luật sư, chuyên gia của Công ty Luật TNHH Everest thực hiện nhằm mục đích nghiên cứu khoa học hoặc phổ biến kiến thức pháp luật, hoàn toàn không nhằm mục đích thương mại.
- Bài viết có sử dụng những kiến thức hoặc ý kiến của các chuyên gia được trích dẫn từ nguồn đáng tin cậy. Tại thời điểm trích dẫn những nội dung này, chúng tôi đồng ý với quan điểm của tác giả. Tuy nhiên, quý Vị đây chỉ nên coi đây là những thông tin tham khảo, bởi nó có thể chỉ là quan điểm cá nhân người viết.
- Trường hợp cần giải đáp thắc mắc về vấn đề có liên quan, hoặc cần ý kiến pháp lý cho vụ việc cụ thể, Quý vị vui lòng liên hệ với chuyên gia, luật sư của Công ty Luật TNHH Everest qua Tổng đài tư vấn pháp luật 19006198, E-mail: [email protected].
Bình luận