Không chỉ việc xem xét vật chứng, ảnh,... mà tòa án còn có thể kiểm tra những chứng cứ, tài liệu, ... có liên quan đến vụ án để làm sáng tỏ hơn cách vấn đề có liên quan đến vụ án.
Vật chứng là vậtđược dùng làm công cụ, phương tiện phạm tội;vật mang dấu vết tội phạm,vật là đối tượng của tội phạm cũng như tiền bạc và vật khác có giá trị chứng minh tội phạm và người phạm tội.
Thứ nhất về việc xem xét vật chứng
Căn cứ pháp lý tại điều 312, Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 quy định:
“1. Vật chứng, ảnh hoặc biên bản xác nhận vật chứng được đưa ra để xem xét tại phiên tòa.
Khi cần thiết, Hội đồng xét xử có thể cùng với Kiểm sát viên, người bào chữa, người khác tham gia phiên tòa đên xem xét tại chỗ những vật chứng không thể đưa đến phiên tòa được. Việc xem xét vật chứng tại chỗ được lập biên bản theo quy định tại Điều 133 của Bộ luật này.
2. Kiểm sát viên, người bào chữa, người khác tham gia phiên tòa có quyền trình bày nhận xét của mình về vật chứng. Hội đồng xét xử, Kiểm sát viên, người bào chữa, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị hại, đương sự có thể hỏi thêm người tham gia phiên tòa về những vấn đề có liên quan đến vật chứng.”
Như vậy, việc xem xét vật chứng tại phiên tòa là bắt buộc. Do đó, phải mang vật chứng hoặc ảnh của vật chứng ra phiên tòa để xem xét; nếu không đưa vật chứng hoặc ảnh của vật chứng ra phiên tòa thì phải đọc biên bản xác nhận vật chứng.
Nếu thấy rằng việc xem xét vật chứng, ảnh hoặc biên bản xác nhận vật chứng chưa đủ để xác định tính chính xác những tình tiết quan trọng trong vụ án, Hội đồng xét xử có thể quyết định đến xem xét tại chỗ vật chứng không thể đưa đến phiên tòa được. Cùng đi với Hội đồng xét xử phải có Kiểm sát viên, bị cáo, người bào chữa, người bị hại và những người có liên quan đến vật chứng đó.
Hội đông xét xử tự mình hoặc theo yêu câu của người xét hỏi quyết định thời điểm phù hợp đưa vật chứng ra xem xét để giúp cho việc xác định sự thật được tốt nhất. Thông thường vật chứng được đưa ra xem xét khi có người khai báo về tình tiết liên quan đến vật chứng đó.
Khi xem xét vật chứng, Hội đồng xét xử có thể hỏi những người tham gia tố tụng về vật chứng, về những tình tiết liên quan đến vật chứng. Kiểm sát viên, người bào chữa và những người khác tham gia phiên tòa có quyền trình bày những nhận xét của mình về vật chứng. Hội đồng xét xử có thể hỏi thêm về những vấn đề có liên quan đến vật chứng.
Thứ hai về việc nghe, xem nội dung được ghi âm hoặc ghi hình có âm thanh của Hội đồng xét xử
Căn cứ pháp lý tại điều 313, Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 quy định:
“Trường hợp cần kiểm tra chứng cứ, tài liệu, đồ vật liên quan đến vụ án hoặc khi bị cáo tố cáo bị bức cung, dùng nhục hình, Hội đồng xét xử quyết định việc cho nghe, xem nội dung được ghi âm hoặc ghi hình có âm thanh liên quan tại phiên tòa.”
Có thể nối, nguồn chứng cứ là một công cụ, phương tiện hữu hiệu nhất để giải quyết một vụ án hình sự. Trong nhiều vụ án hình sự, có nhiều trưởng hợp các cơ quan tiến hành tố tụng đã thu thập được một số nguồn chứng cứ từ “băng ghi âm” lại bị bỏ qua do bản thân nó chưa có một quy định cụ thể chi tiết nào để nó trở thành nguồn chứng cứ quan trọng giúp cho cơ quan tố tụng buộc tội bị can, bị cáo đã thực hiện hành vi phạm tội.
Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 quy định: “Việc hỏi cung bị can tại cơ sở giam giữ hoặc tại trụ sở Cơ quan điều tra, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra phải được ghi âm hoặc ghi hình có âm thanh. Việc hỏi cung bị can tại các địa điểm khác được ghi âm hoặc ghi hình có âm thanh theo yêu cầu của bị can, của cơ quan, người có thẩm quyển tiến hành tố tụng”. Việc quy định bắt buộc ghi âm, ghi hình hoạt động hỏi cung bị can nhằm đảm bảo minh bạch quá trình hỏi cung, chống bức cung, dùng nhục hình, bảo vệ người hỏi cung tránh bị vu cáo.
Trong trường hợp cần kiểm tra chứng cứ, tài liệu, đồ vật liên quan đến vụ án hoặc khi bị cáo tố cáo bị bức cung, dùng nhục hình, Hội đồng xét xử quyết định việc cho nghe, xem nội dung được ghi âm hoặc ghi hình có âm thanh liên quan tại phiên tòa.
Thứ ba, về việc xem xét tại chỗ
Căn cứ pháp lý tại điều 314, Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 quy định:
“Khi xét thấy cần thiết, Hội đồng xét xử có thể cùng với Kiểm sát viên, người bào chữa, người khác tham gia phiên tòa đến xem xét nơi đã xảy ra tội phạm hoặc địa điểm khác có liên quan đến vụ án. Kiểm sát viên, người bào chữa, người khác tham gia phiên tòa có quyền trình bày nhận xét của mình về nơi đã xảy ra tội phạm hoặc địa điểm khác có liên quan đến vụ án. Hội đồng xét xử có thể hỏi thêm người tham gia phiên tòa về những vấn đề có liên quan đến nơi đó."
Việc xem xét tại chỗ được lập biên bản theo quy định tại Điều 133 của Bộ luật này.”
Tại điểm này, địa điểm khác có liên quan đến vụ án có thể là: nơi phát hiện dấu vết tội phạm; con đường mà bị cáo đã đưa xác nạn nhân đi cất giấu,... Trong quá trình xem xét tại chỗ, Hội đồng xểt xử có thể hỏi thêm những người tham gia phiên tòa về những vấn đề có liên quan đến những nơi đó; Kiểm sát viên, người bào chữa và những người khác tham gia phiên tòa có quyền trình bày nhận xét cùa mình về nơi đã xảy ra tội phạm hoặc những địa điểm khác có liên quan đến vụ án.
Khi xem xét tại chỗ, thư ký phiên tòa lập biên bản ghi diễn biến và kết quả khám xét, có các thành viên của Hội đồng xét xử, Kiểm sát viên, bị cáo, người bào chữa và những người được hỏi về nơi được xem xét, cùng ký vào biên bản.
Sau khi xem xét tại chỗ, phiên tòa được tiếp tục ngay hoặc có thể hoãn mấy ngày rồi tiếp tục (nếu địa điểm xem xét tại chỗ ở xa).
Khuyến nghị:
1. Bài viết được luật sư, chuyên gia của Công ty Luật TNHH Everest thực hiện nhằm mục đích nghiên cứu khoa học hoặc phổ biến kiến thức pháp luật, hoàn toàn không nhằm mục đích thương mại.
2. Bài viết có sử dụng những kiến thức hoặc ý kiến của các chuyên gia được trích dẫn từ nguồn đáng tin cậy. Tại thời điểm trích dẫn những nội dung này, chúng tôi đồng ý với quan điểm của tác giả. Tuy nhiên, quý Vị đây chỉ nên coi đây là những thông tin tham khảo, bởi nó có thể chỉ là quan điểm cá nhân người viết.
3. Trường hợp cần giải đáp thắc mắc về vấn đề có liên quan, hoặc cần ý kiến pháp lý cho vụ việc cụ thể, Quý vị vui lòng liên hệ với chuyên gia, luật sư của Công ty Luật TNHH Everest qua Tổng đài tư vấn pháp luật 19006198, E-mail: [email protected].
Bình luận