Công ước 1973 và luật hình sự quốc tế

Công ước 1973 về ngăn ngừa và trừng trị các tội phạm chống lại những người được hưởng bảo hộ quốc tế.

Trong điều ước quốc tế 1973, vấn đề thẩm quyền tài phán đã được xác định cụ thể với các nguyên tắc thẩm quyền phù hợp theo luật quốc tế.

Luật sư tư vấn pháp luật qua tổng đài (24/7) gọi: 1900 6198
Luật sư tư vấn pháp luật hình sự qua tổng đài (24/7) gọi: 1900 6198

Công ước 1973

Trong Công ước 1973 về ngăn ngừa và trừng trị các tội phạm chống lại những người được hưởng bảo hộ quốc tế.

Bao gồm cả viên chức ngoại giao đã quy định mỗi quốc gia thành viên sẽ thực hiện các biện pháp cần thiết xác định thẩm quyền tài phán của mình.Các quốc gia có thẩm quyền là các quốc gia sau đây:

- Quốc gia nơi hành vi tội phạm được thực hiện;

- Quốc gia mà phương tiện bay hoặc tàu biển mang quốc tịch, nếu hành vi lội phạm được thực hiện trên phương tiện bay hoặc tàu biển;

- Quốc gia mà nghi phạm là công dân;

- Quốc gia mà nạn nhân đang thực thi chức năng đại diện cho quốc gia này.

Công ước 1973 nguyên tắc xác định thẩm quyền

Với các nguyên tắc xác định thẩm quyền tài phán được ghi nhận.

Công ước 1973 cũng sử dụng các nguyên tắc có tính truyền thống.

Về xác lập thẩm quyền xét xử hình sự cùa luật quốc tế. Đây là các nguyên tắc lãnh thổ, nguyên tắc quốc tịch, bao gồm cả hai biến dạng quốc tịch chủ động và thụ động của hành vi tội phạm.

Đồng thời nguyên tắc quốc tịch được mở rộng bao gồm cả quốc tịch phương tiện bay và tàu biển nơi hành vi tội phạm được thực hiện. Bên cạnh đó, Công ước cũng thừa nhận nguyên tắc thẩm quyền phổ cập khi quy định các quốc gia thành viên có quyền xác lập quyền xét xử của mình nếu quốc gia hữu quan này không dẫn độ nghi phạm tới bất kỳ quốc gia nào có liên quan để tiến hành xét xử theo thẩm quyền đã được ghi nhận.

Để đảm bảo nguyên tặc thẩm quyền phổ cập được áp dụng có hiệu quả và kịp thời, trừng phạt thích đáng cá nhân phạm tội.

Nghĩa vụ ca quốc gia nơi nghi phạm đang có mặt.

Công ước 1973 đã quy định nghĩa vụ ca quốc gia nơi nghi phạm đang có mặt. Nếu không dẫn độ thì phải tiến hành xét xử ngay, phải chuyển giao vụ việc cho cơ quan cơ thẩm quyền đổ tiến hành truy tố và mang ra xét xử mà không có bất cứ ngoại lệ nào cũng như không thể chậm trễ một cách phi lý.

Quá trình tố tụng phải được thực hiện dựa trên cơ sở các quy định của pháp luật trong nước.

Đảm bảo thẩm quyền tài phán của quốc gia

Cũng như các điều ước quốc tế khác về hình sự, Công ước 1973 vẫn đảm bảo thẩm quyền tài phán của quốc gia, khi quyền này được xác lập phù hợp với pháp luật của quốc gia đó.

Việc quy định quyền hạn xét xử theo các nguyên tắc của Công ước này không loại bỏ việc áp dụng các quy định của luật trong nước về phân định thẩm quyền tài phán. Quy định này thể hiện sự tôn trọng và đảm bảo nguyên tắc chủ quyền quốc gia của pháp luật quốc tế.

Theo Công ước 1973 các quốc gia có thẩm quyền sẽ là

Theo Điều 7 của Công ước này, mỗi quốc gia thành viên sẽ áp dụng những biện pháp cần thiết để xác định thẩm quyền tài phán đối với các tội phạm thuộc phạm vi điều chỉnh của Công ước. Các quốc gia có thẩm quyền sẽ là:

- Quốc gia nơi hành vi tội phạm được thực hiện;

- Quốc gia mà phương tiện bay hoặc tàu thuyền mang quốc tịch, khi các phương tiện bay hay tàu thuyền này là nơi diễn ra hành vi tội phạm;

- Quốc gia mà hành vi tội phạm được thực hiện bởi công dân nước này, hoặc quốc gia nơi cá nhân tội phạm thường trú;

- Quốc gia mà nạn nhân của tội phạm là cổng dân;

- Quốc gia mà hành vi tội phạm được thực hiện nhằm chống lại các cơ sở, trang thiết bị, đại sứ quán - lãnh sự quán cùa nưóc này ở nước ngoài;

- Quốc gia mà hành vi tội phạm được thực hiện nhằm chống lại an ninh và trật tự công cộng của quốc gia trong quan hệ quốc tế hoặc quốc nội.

Khuyến nghị:

  1. Bài viết được luật sư, chuyên gia của Công ty Luật TNHH Everest thực hiện nhằm mục đích nghiên cứu khoa học hoặc phổ biến kiến thức pháp luật, hoàn toàn không nhằm mục đích thương mại.
  2. Bài viết có sử dụng những kiến thức hoặc ý kiến của các chuyên gia được trích dẫn từ nguồn đáng tin cậy. Tại thời điểm trích dẫn những nội dung này, chúng tôi đồng ý với quan điểm của tác giả. Tuy nhiên, quý Vị đây chỉ nên coi đây là những thông tin tham khảo, bởi nó có thể chỉ là quan điểm cá nhân người viết.
  3. Trường hợp cần giải đáp thắc mắc về vấn đề có liên quan, hoặc cần ý kiến pháp lý cho vụ việc cụ thể, Quý vị vui lòng liên hệ với chuyên gia, luật sư của Công ty Luật TNHH Everest qua Tổng đài tư vấn pháp luật 19006198, E-mail: [email protected].