Ngoài các vấn đề chung như quy định các tội phạm mới, xóa bỏ tội phạm, nguyên tắc xử lý hình sự… BLHS năm 2015 còn có quy định cụ thể, là những điểm mới so với BLHS 1999.
Ngoài các vấn đề chung như quy định các tội phạm mới, xóa bỏ tội phạm, nguyên tắc xử lý hình sự… BLHS năm 2015 còn có quy định cụ thể, là những điểm mới so với BLHS 1999.
>>>Luật sư tư vấn pháp luật qua tổng đài (24/7) gọi: 1900 6198
Điều 14 BLHS năm 2015 quy định về chuẩn bị phạm tội, trong đó có liệt kê các tội phạm cụ thể, VKS các cấp cần so sánh, áp dụng về sự khác nhau giữa BLHS năm 1999 và BLHS năm 2015, nhất là với các trường hợp người phạm tội từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi.
Tại Điều 18 BLHS năm 2015 về che giấu tội phạm có điểm khác với quy định tại Điều 21 của BLHS năm 1999. Người che giấu tội phạm là ông, bà, cha, mẹ, con, cháu, anh chị em ruột, vợ hoặc chồng của người phạm tội không phải chịu trách nhiệm hình sự trừ trường hợp che giấu các tội xâm phạm an ninh quốc gia hoặc tội đặc biệt nghiêm trọng khác quy định tại Điều 389 của BLHS năm 2015. Những người thuộc trường hợp này sẽ không bị coi là tội phạm theo BLHS mới.
Tại Điều 19 BLHS năm 2015 về không tố giác tội phạm có điểm khác với quy định tại Điều 22 của BLHS năm 1999. BLHS mới quy định: Người bào chữa không phải chịu trách nhiệm hình sự trong trường hợp không tố giác tội phạm do chính người mà mình bào chữa đã thực hiện hoặc đã tham gia thực hiện mà người bào chữa biết được khi thực hiện nhiệm vụ bào chữa, trừ trường hợp không tố giác các tội xâm phạm an ninh quốc gia hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng khác quy định tại Điều 389 của BLHS năm 2015. Những người thuộc trường hợp này sẽ không bị coi là tội phạm theo BLHS mới.
Đối với các quy định tại các điểm a khoản 1, điểm c khoản 2, khoản 3 Điều 29 BLHS năm 2015. Do sự thay đổi chính sách pháp luật, chuyển biến tình hình thì VKS các cấp cần đối chiếu giữa BLHS năm 1999 và BLHS năm 2015 và Nghị quyết 109 đồng thời rà soát, lên danh sách và xem xét áp dụng theo đúng tinh thần của BLHS năm 2015 và Nghị quyết 109 của Quốc hội.
Tại điểm x khoản 1 Điều 51 BLHS năm 2015 quy định về Các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định: Người phạm tội là cha, mẹ, vợ, chồng, con của liệt sĩ, người có công với cách mạng. Đây là tình tiết mới của BLHS năm 2015, các trường hợp này được áp dụng và được coi là tình tiết giảm nhẹ thuộc khoản 1 Điều 46 BLHS 1999 hiện nay.
Tại Điều 54 BLHS năm 2015 quy định về Quyết định hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt được áp dụng, BLHS năm 2015 mới bổ sung khoản 2 Điều này, đây là điểm mới so với Điều 47 BLHS năm 1999: Tòa án có thể quyết định một hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt được áp dụng nhưng không bắt buộc phải trong khung hình phạt liền kề nhẹ hơn của điều luật đối với người phạm tội lần đầu là người giúp sức trong vụ án đồng phạm nhưng có vai trò không đáng kể. Theo tinh thần Nghị quyết 109 thì quy định này sẽ được áp dụng ngay trong các vụ án cụ thể.
Tại Điều 62 BLHS năm 2015 về miễn chấp hành hình phạt có điểm khác với quy định tại Điều 57 của BLHS năm 1999. BLHS năm 2015 quy định rõ ràng và cụ thể hơn về các trường hợp được miễn chấp hành hình phạt nên khi áp dụng vào các vụ án cụ thể nếu quy định của BLHS nào có lợi hơn cho người phạm tội thì sẽ được áp dụng (theo nguyên tắc có lợi cho người phạm tội).
Tại Điều 69 BLHS năm 2015 về xóa án tích có điểm khác với quy định tại Điều 63 của BLHS năm 1999. BLHS năm 2015 quy định: Người bị kết án do lỗi vô ý về tội phạm ít nghiêm trọng, tội phạm nghiêm trọng và người được miễn hình phạt không bị coi là có án tích.
Tại Điều 100 BLHS năm 2015 về hình phạt cải tạo không giam giữ với người chưa thành niên có điểm khác với quy định tại Điều 73 của BLHS năm 1999. Bộ luật mới quy định áp dụng hình phạt này cụ thể hơn và nhẹ hơn với từng độ tuổi của người chưa thành niên. Do vậy khi áp dụng vào các điều luật cụ thể theo nguyên tắc có lợi cho người phạm tội thì phải áp dụng các quy định mới trong BLHS năm 2015 về mức án nhẹ hơn đối với người chưa thành niên theo từng lứa tuổi.
Tại Điều 102 BLHS năm 2015 về Quyết định hình phạt trong trường hợp chuẩn bị phạm tội, phạm tội chưa đạt với người dưới 18 tuổi phạm tội là quy định mới so với BLHS năm 1999. Trong đó quy định việc áp dụng hình phạt với từng lứa tuổi. Với nguyên tắc có lợi cho người phạm tội theo tinh thần Nghị quyết 109 của Quốc hội thì phải áp dụng các quy định mới trong BLHS năm 2015 về mức án nhẹ hơn đối với người chưa thành niên theo từng lứa tuổi đối với từng vụ án cụ thể.
Tại Điều 103 BLHS năm 2015 về Tổng hợp hình phạt trong trường hợp phạm nhiều tội với người dưới 18 tuổi phạm tội có điểm khác với quy định tại Điều 75 của BLHS năm 1999. Bộ luật mới quy định áp dụng hình phạt này cụ thể hơn và nhẹ hơn với từng độ tuổi của người dưới 18 tuổi. Theo nguyên tắc có lợi cho người phạm tội thì phải áp dụng các quy định mới trong BLHS năm 2015 về mức án nhẹ hơn đối với người dưới 18 tuổi theo từng lứa tuổi khi áp dụng vào các điều luật cụ thể.
Tại Điều 107 BLHS năm 2015 về Xóa án tích với người dưới 18 tuổi phạm tội có điểm khác với quy định tại Điều 77 của BLHS năm 1999. Bộ luật mới quy định việc xóa án tích cụ thể hơn và nhẹ hơn với từng độ tuổi của người dưới 18 tuổi. Theo nguyên tắc có lợi cho người phạm tội thì phải áp dụng các quy định mới trong BLHS năm 2015 về mức án nhẹ hơn đối với người 18 tuổi phạm tội theo từng lứa tuổi khi áp dụng vào các điều luật cụ thể.
Tại điểm e, g khoản 2 Điều 142 BLHS năm 2015 về tội Hiếp dâm người dưới 16 tuổi có điểm giống và khác với quy định tại điểm c, d Khoản 3 Điều 112 của BLHS năm 1999. Bộ luật mới quy định áp dụng tình tiết phạm tội từ 2 lần trở lên hoặc phạm tôi đối với 2 người trở lên có khung hình phạt từ 12 năm đến 20 năm. BLHS năm 1999 cũng quy định tình tiết phạm tội nhiều lần (cũng là từ 2 lần trở lên) hoặc phạm tội đối với nhiều người (cũng là từ 2 người trở lên). Tuy nhiên khung hình phạt bắt đầu từ 20 năm, chung thân hoặc tử hình. Với nguyên tắc có lợi cho người phạm tội thì việc áp dụng khung hình phạt theo BLHS năm 2015 mức án từ 12 năm đến 20 năm sẽ được áp dụng ngay với những người thực hiện hành vi này.
Tại khoản 1 Điều 321 BLHS năm 2015 về tội Đánh bạc quy định mức tiền khởi điểm để truy cứu TNHS với tội danh này là 5.000.000 đồng. Các trường hợp đánh bạc nhưng số tiền thu được có giá trị dưới 5.000.000 đồng mà không có tiền án, tiền sự về tội danh này hoặc có nhưng đã được xóa án tích thì cần chuyển sang hình thức xử phạt hành chính, miễn truy cứu TNHS.
Nguồn tham khảo: www.congly.vn (Báo công lý, cơ quan của toàn án nhân dân tối cao)
Quý vị tìm hiểu thêm thông tin chi tiết hoặc liên hệ với Luật sư, Luật gia của Công ty Luật TNHH Everest để yêu cầu cung cấp dịch vụ:
- Địa chỉ: Tầng 19 Tòa nhà Thăng Long Tower, 98 Ngụy Như Kom Tum, Thanh Xuân, Hà Nội
- Văn phòng giao dịch: Tầng 2, Toà nhà Ngọc Khánh, 37 Nguyễn Sơn, Long Biên, Hà Nội
- Điện thoại: (04) 66.527.527 - Tổng đài tư vấn pháp luật: 1900-6218
- E-mail:[email protected], hoặc E-mail: [email protected].
Bình luận