Chuyển giao người bị kết án là vấn đề mới đối với Việt Nam. Việt Nam đã ký kết hiệp định tương trợ tư pháp với một số quốc gia, trong đó có quy định về chuyển giao người bị kết án nhưng thực tế cho đến nay, giữa hai bên thực hiện được rất ít việc chuyển giao.
Việc chuyển giao người bị kết án theo nguyên tắc có đi, có lại giữa Việt Nam và nước ngoài chủ yếu dựa trên từng vụ việc cụ thể, chủ yếu đối với những đối tượng phạm tội cướp tài sản, phạm tội về ma túy... bị bệnh nặng hoặc Vỉ những lý do khách quan khác mà giữa Việt Nam với nước mặ người bị kết án là công dân có quan hệ truyền thống và đáp ứng những điều kiện cơ bản của pháp luật quốc tế và pháp luật Việt Nam.
Thực tiễn hiện nay
Trong thời gian qua, người nước ngoài phạm tội ở Việt Nam và phải chấp hành hình phạt ở Việt Nam tăng nhanh. Điều đó đã gây ra những khó khăn cho việc thi hành án, tạm đình chỉ thi hành hình phạt tù, thông báo quyết định thi hành án, quản lý, giáo dục người phạm tội của các cơ quan chức năng đồng thời những phạm nhân nước ngoài cũng có ít điều kiện được tiếp xúc, lao động, học tập như những phạm nhân là người Việt Nam.
Mặt khác, người Việt Nam phạm tội và đang chấp hành hình phạt ở nước ngoài cũng có chiều hướng phức tạp, gây khó khăn cho nước sở tại (tù nhân là người Việt Nam đang chấp hành hình phạt tù tại Australia chiếm 2,8% số phạm nhân cùa nước này). Một trong những nguyên nhân là Việt Nam chưa xây dựng được khung pháp lý hoàn thiện cho việc chuyển giao người bị kết án, cụ thể là: Bộ luật tố tụng hình sự có quy định về thi hành án và quyết định của tòa án (phẩn thứ năm), tuy nhiên, các quy định này chưa đề cập đến việc thi hành án hình sự của tòa án nước ngoài. Do vậy, khi chuyển giao người bị kết án sẽ phát sinh vấn đề tòa án cấp nào có thẩm quyền tiếp nhận và tiếp tục thực hiện cắc thủ tục tố tụng hình sự và ai sẽ là người ra quyết định thi hành bản ấn hình sự của tòa án nước ngoài... Trong khi đó, pháp luật Việt Nam cũrig chưa có quy định giải quyết xung đột pháp luật vế nội dung như quy định khác nhau về tội danh, hình phạt, mức hình phạt nên hiệu quả hợp tác quốc tế trong lĩnh vực này chưa đáp ứng được yêu cầu của thực tiễn. Để nâng cao hiệu quả, theo chúng tôi cần hoàn thiện cơ sở pháp lý theo hướng sau đây:
- Trước mắt, cần nghiên cứu sửa đổi, bổ sung phần thi hành án và quyết định của tòa án nước ngoài và tiếp tục bổ sung hoàn thiện những quy định về hợp tác quốc tế như dẫn độ tội phạm, tương trợ tư pháp về hình sự và chuyển giao người bị kết án vào Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003, tạo cơ sở pháp lý cho những hoạt động này;
- Về lâu dài, cần tập trung xây dựng Luật hay Pháp lênh về chuyển giao người bị kết án trong đó quy định cụ thể nguyên tắc, thẩm quyền, điều kiện chuyển giao, những trường hợp từ chối chuyển giao, nội dung, hình thức yêu cầu chuyển giao, thực hiện yêu cầu chuyển giao, giải quyết xung đột pháp luật khi phát sinh giữa hai bên ký kết, cơ quan quản lý Nhà nước, quy chế hợp tác thực hiện g:ữa các cơ quan Nhà nước có liên quan...trên cơ sở nghiên cứu pháp luật quốc tế và tham khảo kinh nghiệm một số quốc gia và khu vực.
- Tiếp tục đàm phán, ký kết các hiệp định song phương vể chuyển giao người bị kết án giữa Việt Nam và nước ngoài trên cơ sở không phân biệt chế độ chính trị, kinh tế, xã hội, phù hợp với luật pháp quốc tế và pháp luật Việt Nam, đặc biệt là với những nước Việt Nam có quan hệ truyền thống, láng giềng hoặc có nhiều người Việt Nam sinh sống, cư trú.
Khuyến nghị của Côngty Luật TNHH Everest:
- Bài viết trong lĩnh vực hình sự (nêu trên) được luật sư, chuyên gia của Công ty Luật TNHH Everest thực hiện nhằm mục đích nghiên cứu khoa học hoặc phổ biến kiến thức pháp luật, hoàn toàn không nhằm mục đích thương mại.
- Bài viết có sử dụng những kiến thức hoặc ý kiến của các chuyên gia được trích dẫn từ nguồn đáng tin cậy. Tại thời điểm trích dẫn những nội dung này, chúng tôi đồng ý với quan điểm của tác giả. Tuy nhiên, quý Vị chỉ nên coi đây là những thông tin tham khảo, bởi nó có thể chỉ là quan điểm cá nhân người viết.
- Trường hợp cần giải đáp thắc mắc về vấn đề có liên quan, hoặc cần ý kiến pháp lý cho vụ việc cụ thể, Quý vị vui lòng liên hệ với chuyên gia, luật sư của Công ty Luật TNHH Everest qua Tổng đài tư vấn pháp luật 1900 6198, E-mail: [email protected].
Bình luận