Quy định về tiếng nói và chữ viết trong tố tụng tụng hình sự được quy định tại điều 29 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 và về việc giải quyết vấn đề dân sự được quy định tại điều 30 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015.
Vấn đề tiếng nói và chữ viết trong vụ án hình sự được quy định cụ thể trong Bộ luật tố tụng hình sự, giúp cho người dân tộc thiểu số có thể đến gần hơn với pháp luật. Về vấn đề giải quyết việc dân sự trong vụ án hình sự cũng được quy định chặt chẽ trong Bộ luật tố tụng hình sự.
Thứ nhất, về tiếng nói và chữ viết trong tố tụng hình sự (Điều 29 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015).
Thể chế hoá quy định của Hiến pháp năm 2013, cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng phải bảo đảm cho người tham già tố tụng được sử dụng tiếng nói và chữ viết của dân tộc mình. Để việc tiến hành tố tụng có hiệu quả, tạo điều kiện cho người tham gia tố tụng góp phần vào việc xác định sự thật vụ án cũng như bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp mình, BLTTHS quy định tiếng nói và chữ viết dùng trong tố tụng hình sự là một nguyên tắc cơ bản.
Điều 29 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 quy định về tiếng nói và chữ viết trong tố tụng hình sự có nội dung như sau:
(i) Tiếng nói và chữ viết dùng trong tố tụng hình sự là tiếng Việt.
(ii) Người tham gia tố tụng có quyền dùng tiếng nói và chữ viết của dân tộc mình, trong trường hợp này cần phải có người phiên dịch.
Theo quy định trên thì tiếng Việt (tiếng Kinh) được xác định là tiếng nói và chữ viết dùng trong tố tụng hình sự. Tiếng Việt còn được hiểu là tiếng Việt Nam, dùng để phân biệt với các thứ tiếng khác ttên thế giới. Do vậy, trong trường hợp có người tham gia tố tụng không biết tiếng Việt thì phải có người phiên dịch, không kể người đó là người Việt Nam hay người nước ngoài.
Việc BLTTHS quy định tiếng nói và chữ viết dùng trong tố tụng hình sự không chỉ có ý nghĩa về pháp lý mà còn có ý nghĩa chính trị - xã hội.
Thứ hai, về giải quyết vấn đề dân sự trong vụ án hình sự (Điều 30 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015).
Trong vụ án hình sự những tưởng chỉ có sự việc liên quan đến hình sự, nhưng không trong đó còn có các vấn đề dân sự cần giải quyết như: bồi thường thiệt hại, về quan hệ sở hữu,..
Thực tiễn điều tra, truy tố và xét xử các vụ án hình sự cho thấy trong nhiều vụ án hình sự có vấn đề dân sự cần được giải quyết. Để tạo cơ sở pháp lý cho việc giải quyết vấn đề bồi thường, bồi hoàn trong hoạt động tố tụng hình sự nhằm bảo đảm việc giải quyết vụ án hình sự được nhanh chóng, kịp thời, bảo đảm quyền và lợi ích của những người tham gia tố tụng Bộ luật tố tụng hình sự quy định nguyên tắc giải quyết vấn đề dân sự trong vụ án hình sự. Đây là nguyên tắc mới được bổ sung vào Bộ luật tố tụng hình sự.
Giải quyết vấn đề dân sự trong vụ án hình sự được quy định tại điều 30 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015, có nội dung như sau:“ Việc giải quyết vấn đề dân sự trong vụ án hình sự được tiến hành cùng với việc giải quyết vụ án hình sự. Trường hợp vụ án hình sự phải giải quyết vấn đề bồi thường thiệt hại, bồi hoàn mà chưa cso điều kiện chứng minh, không ảnh hưởng đến việc giải quyết vụ án hình sự thì vấn đề dân sự có thể tách ra để giải quyết theo thủ tục tố tụng dân sự”.
Việc giải quyết vấn đề dân sự trong vụ án hình sự có 2 trường hợp có thể xảy ra, đó là:
(i) Cùng tiến hành với việc giải quyết vụ án hình sự
(ii) Được tách ra để giải quyết theo thủ tục tố tụng dân sự nếu như thỏa mãn hai điều kiện là chưa có điều kiện chứng minh việc bồi thường, bồi hoàn và việc tách vụ án không bị ảnh hưởng đến việc giải quyết vụ án hình sự.
Ví dụ:
A cướp tài sản của B, tổng giá trị tài sản bị chiếm đoạt theo lời khai của B là 53 triệu. A bị truy tố theo điểm d khoản 2 điều 168 Bộ luật hình sự.
Nếu Tòa án cấp sơ thẩm xét thấy cơ quan điều tra chưa chứng minh lời khai của B có căn cứ hay không, tổng giá trị tài sản bị chiếm đoạt thực tế thì có tách được vấn đề dân sự được không?
Trả lời: Ở trường hợp này thì ta không thể tách được vụ án vì nó sẽ ảnh hưởng đến việc giải quyết vấn đề vụ án hình sự.
Khuyến nghị của Công ty Luật TNHH Everest:
- Bài viết trong lĩnh vực hình sự (nêu trên) được luật sư, chuyên gia của Công ty Luật TNHH Everest thực hiện nhằm mục đích nghiên cứu khoa học hoặc phổ biến kiến thức pháp luật, hoàn toàn không nhằm mục đích thương mại.
- Bài viết có sử dụng những kiến thức hoặc ý kiến của các chuyên gia được trích dẫn từ nguồn đáng tin cậy. Tại thời điểm trích dẫn những nội dung này, chúng tôi đồng ý với quan điểm của tác giả. Tuy nhiên, quý Vị chỉ nên coi đây là những thông tin tham khảo, bởi nó có thể chỉ là quan điểm cá nhân người viết.
- Trường hợp cần giải đáp thắc mắc về vấn đề có liên quan, hoặc cần ý kiến pháp lý cho vụ việc cụ thể, Quý vị vui lòng liên hệ với chuyên gia, luật sư của Công ty Luật TNHH Everest qua Tổng đài tư vấn pháp luật 1900 6198, E-mail: [email protected].
Bình luận