Đánh bạc là một trong những tệ nạn xã hội xâm phạm đến trật tự công cộng gây nguy hiểm cho gia đình và xã hội. Ngoài việc bị xử lý vi phạm hành chính thì hành vi đánh bạc còn có thể bị truy cứu trách nhiệm hính sự khi đáp ứng đầy đủ các yêu tố cấu thành tội phạm.
Đánh bạc là một trong những tệ nạn xã hội làm cho hạnh phúc nhiều gia đình tan vỡ, nhiều người mất nhà cửa. Không chỉ thế, đánh bạc còn được xem là một trong những nguyên nhân phát sinh các tệ nạn xã hội và tội phạm khác (Ví dụ: đánh bạc thua dẫn đến thiếu nợ là một trong những nguyên nhân dẫn đến người thua bạc phạm tội trộm cắp, cướp tài sản, cướp giật tài sản). Chính vì vậy, bên cạnh xử lý hành chính, pháp luật hình sự còn quy định đánh bạc là tội phạm và những người vi phạm đáp ứng các yếu tố cấu thành tội phạm sẽ bị áp dụng biện pháp cưỡng chết nghiêm khắc nhất được quy định trong Bộ luật Hình sự là hình phạt.
Luật sư tư vấn pháp luật qua tổng đài (24/7) gọi: 1900 6198
Thứ nhất, về căn cứ pháp lý
Điều 321 Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017 quy định: "1.
Người nào đánh bạc trái phép dưới bất kỳ hình thức nào được thua bằng tiền hay
hiện vật trị giá từ 5.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng hoặc dưới 5.000.000
đồng nhưng đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi này hoặc hành vi quy định
tại Điều 322 của Bộ luật này hoặc đã bị kết án về tội này hoặc tội quy định tại
Điều 322 của Bộ luật này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm, thì bị phạt tiền
từ 20.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng, phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm
hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm. 2. Phạm tội thuộc một trong các trường
hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 03 năm đến 07 năm: (a) Có tính chất chuyên nghiệp; (b) Tiền hoặc hiện vật dùng đánh bạc
trị giá 50.000.000 đồng trở lên; (c) Sử dụng mạng internet, mạng máy
tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử để phạm tội; (d) Tái phạm nguy hiểm. 3. Người phạm tội còn có thể bị phạt
tiền từ 10.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng."
Như vậy, người nào đánh bạc trái phép được thua bằng tiền hoặc tài sản khác có giá trị từ 5.000.000 đồng trở lên hoặc dưới 5.000.000 đồng nhưng đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi đánh bạc hoặc hành vi tổ chức đánh bạc, gá bạc hoặc đã bị kết án về tội đánh bạc, tội tổ chức đánh bạc, gá bạc thì bị truy cứu trách nhiệm hình hình sự về tội đánh bạc theo quy định tại Điều 321 Bộ luật Hình sự năm 2015.
Trường hợp hành vi đánh bạc không đủ điều kiện cấu thành tội đánh bạc thì người đánh bạc sẽ bị xử lý vi phạm hành chính.
Điều 26 Nghị định 167/2013/NĐ-CP ngày 12/11/2013 của Chính phủ về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực an ninh, trật tự, an toàn xã hội; phòng, chống tệ nạn xã hội; phòng cháy và chữa cháy; phòng, chống bạo lực gia đình quy định:
"1. Phạt cảnh cáo hoặc phạt tiền từ 200.000 đồng đến 500.000 đồng đối với hành vi mua các số lô, số đề. 2. Phạt tiền từ 1.000.000 đồng đến 2.000.000 đồng đối với một trong những hành vi đánh bạc sau đây: (a) Đánh bạc trái phép bằng một trong các hình thức như xóc đĩa, tá lả, tổ tôm, tú lơ khơ, tam cúc, 3 cây, tứ sắc, đỏ đen, cờ thế hoặc các hình thức khác mà được, thua bằng tiền, hiện vật; (b) Đánh bạc bằng máy, trò chơi điện tử trái phép; (c) Cá cược bằng tiền hoặc dưới các hình thức khác trong hoạt động thi đấu thể thao, vui chơi giải trí, các hoạt động khác; (d) Bán bảng đề, ấn phẩm khác cho việc đánh lô, đề. 3. Phạt tiền từ 2.000.000 đồng đến 5.000.000 đồng đối với một trong những hành vi sau đây: (a) Nhận gửi tiền, cầm đồ, cho vay tại sòng bạc, nơi đánh bạc khác; (b) Che giấu việc đánh bạc trái phép."
Thứ hai, các yếu tố cấu thành tội đánh bạc
(i) Mặt khách quan của tội phạm
Hành vi khách quan: Hành vi đánh bạc có sự thỏa thuận được thua bằng tiền hay bằng hiện vật có giá trị từ năm triệu đồng trở lên. Người phạm tội thực hiện hành vi đánh bạc bằng nhiều hình thức khác nhau
như: chới số đề, cá độ bóng đá, chọi gà, cá độ đua ngựa, đua xe… thủ
đoạn phạm tội cũng rất tinh vi.
Trường hợp tiền hay hiện vật có giá trị dưới năm triệu đồng thì phải thuộc trường hợp đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi đánh bạc hoặc hành vi tổ chức đánh
bạc, gá bạc hoặc đã bị kết án về tội đánh bạc, tội tổ chức đánh bạc, gá
bạc chưa được xóa án tích mà còn vi phạm thì mới bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội này.
Về tiền và hiện vật xác định đưa vào đánh bạc gồm:
– Tiền hoặc hiện vật dùng để đánh bạc thu giữ được trực tiếp tại chiếu bạc.
– Tiền hoặc hiện vật thu được trong người các con bạc mà có đủ căn cứ xác định đã được hoặc sẽ được dùng để đánh bạc.
– Tiền hoặc hiện vật thu giữ những nơi khác mà có đủ căn cứ xác định đã được hoặc sẽ được dùng để đánh bạc.
Theo quy định của pháp luật thì chỉ người có hành vi đánh bạc trái phép dưới bất kỳ hình thức nào được thua bằng tiền hay hiện vật mới bị coi là hành vi phạm tội. Đối với những trò chơi được thua bằng tiền hay hiện vật được nhà nước cho phép như: chơi sổ xố, lô tô, casino… thì không coi là hành vi phạm tội.
Hậu quả: Hậu quả không phải là yếu tố định tội hoặc định khung hình phạt đối với tội đánh bạc, chỉ cần người phạm tội có hành vi đánh bạc thỏa mãn dấu hiệu khách quan được quy định trong điều luật.
Lưu ý: Khi xác định trách nhiệm hình sự đối với người đánh bạc không được tính tổng số tiền, giá trị hiện vật dùng để đánh bạc củạ tất cả các lần đánh bạc, mà phải căn cứ vào từng lần đánh bạc để xem xét cụ thể.
(ii) Khách thể của tội phạm
Tội đánh bạc là tội xâm phạm đến trật tự công cộng, mà trực tiếp xâm phạm đến trật tự nếp sống văn minh của xã hội, vì cờ bạc nói chung là một tệ nạn của xã hội.
(iii) Mặt chủ quan của tội phạm
Người phạm tội đánh bạc thực hiện hành vi phạm tội của mình là do lỗi cố ý. Tức là họ nhận thức được hoặc buộc phải biết hành vi của mình là trái pháp luật, nguy hiểm cho xã hội nhưng vẫn thực hiện để thỏa mãn bản thân hoặc để kiếm lời bất chính từ những người cùng đánh bạc với mình.
(iv) Chủ thể của tội phạm
Chủ thể của tội đánh bạc không phải chủ thể đặc biệt, chỉ cần người đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự, không bị mất khả năng nhận thức và khả năng điều khiển hành vi đều có thể là chủ thể của tội phạm này.
Theo quy định tại Điều 12 Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017 thì những người từ đủ 16 tuổi trở lên phải chịu trách nhiệm hình sự về tội đánh bạc.
Đối với những người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi sẽ được áp dụng những quy định của pháp luật hình sự đối với người dưới 18 tuổi phạm tội.
Thứ ba, về hình phạt
Mức hình phạt của tội phạm này được chia thành 02 khung cụ thể như sau:
(i) Khung 1: Phạt tiền từ 20.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng, phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm.
Như vậy, người phạm tội đánh bạc thỏa mãn các dấu hiệu của khung 1 thì có thể bị áp dụng 01 trong ba hình phạt chính là phạt tiền, cải tạo không giam giữ hoặc phạt tù.
(ii) Khung 2: Phạt tù từ 03 năm đến 07 năm.
Nếu hình phạt chính của người phạm tội là phạt cải tạo không giam giữ hoặc phạt tù thì người phạm tội còn có thể phải chịu thêm hình phạt bổ sung với mức phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng.
Luật
gia Nguyễn Thị Phương Hoa - Tổ tư vấn pháp luật Hình sự của Công ty
Luật TNHH Everest - Tổng đài tư vấn pháp luật 1900 6198, tổng hợp.
Khuyến nghị:
- Bài
viết được luật sư, chuyên gia của Công ty Luật TNHH Everest thực hiện
nhằm mục đích nghiên cứu khoa học hoặc phổ biến kiến thức pháp luật,
hoàn toàn không nhằm mục đích thương mại.
- Bài
viết có sử dụng những kiến thức hoặc ý kiến của các chuyên gia được
trích dẫn từ nguồn đáng tin cậy. Tại thời điểm trích dẫn những nội dung
này, chúng tôi đồng ý với quan điểm của tác giả. Tuy nhiên, quý Vị đây
chỉ nên coi đây là những thông tin tham khảo, bởi nó có thể chỉ là quan
điểm cá nhân người viết.
- Trường
hợp cần giải đáp thắc mắc về vấn đề có liên quan, hoặc cần ý kiến pháp
lý cho vụ việc cụ thể, Quý vị vui lòng liên hệ với chuyên gia, luật sư
của Công ty Luật TNHH Everest qua Tổng đài tư vấn pháp luật 19006198,
E-mail: [email protected], [email protected].
Bình luận