Để có thể quyết định đưa vụ án ra xét xử hoặc ra quyết định tố tụng khác phù hợp với yêu cầu của pháp luật phải có một khoảng thời gian nhất định để chuẩn bị. Trong pháp luật, đó được gọi là thời hạn xét xử.
Thời hạn chuẩn bị xét xử tức là nghiên cuuws hồ sơ vầ giải quyết yêu cầu cầu của người tham gia tố tụng đồng thời tiến hành những việc cần thiết mở phiên tòa sơ thẩm.
Thứ nhất, quy định về thời hạn chuẩn bị xét xử
Thời hạn chuẩn bị xét xử quy định cụ thể tại điều 277 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015, theo đó:
“1. Trong thời hạn 30 ngày đối với tội phạm ít nghiêm trọng, 45 ngày đối với tội phạm nghiêm trọng, 02 tháng đối với tội phạm rất nghiêm trọng, 03 tháng đối với tội phạm đặc biệt nghiêm trọng từ ngày thụ lý vụ án, Thẩm phán chủ tọa phiên tòa phải ra một trong các quyết định:
a) Đưa vụ án ra xét xử;
b) Trả hồ sơ để yêu cầu điều tra bổ sung;
c) Tạm đình chi vụ án hoặc đình chi vụ án.
Đối với vụ án phức tạp, Chánh án Tòa án có thể quyết định gia hạn thời hạn chuẩn bị xét xử nhưng không quá 15 ngày đối với tội phạm ít nghiêm trọng và tội phạm nghiêm trọng, không quá 30 ngày đoi với tội phạm rất nghiêm trọng và tội phạm đặc biệt nghiêm trọng. Việc gia hạn thời hạn, chuẩn bị xét xử phải thông báo ngay cho Viện kiểm sát cùng cấp.
2. Đổi với vụ án được trả lại đề yêu cầu điều tra bổ sung thì trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận lại hồ sơ, Thẩm phán chủ tọa phiên tòa phải ra quyết định đưa vụ án ra xét xử. Trường hợp phục hồi vụ án thì thời hạn chuẩn bị xét xử theo thủ tục chung quy định tại Bộ luật này kể tư ngày Tòa án ra quyết định phục hồi vụ án.
3. Trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày có quyết định đưa vụ án ra xét xử, Tòa án phải mở phiên tòa; trường hợp vì lý do bất khả kháng hoặc do trở ngại khách quan thì Tòa án có thể mở phiên tòa trong thời hạn 30 ngày”.
Thứ hai, bình luận vấn đề
(i) Thời hạn chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án hình sự là khoảng thời gian theo quy định của pháp luật để Tòa án thực hiện các hoạt động tố tụng và các công việc cần thiết khác đảm bảo cho việc xét xừ vụ án tại phiên tòa sơ thẩm đạt chất lượng và hiệu quả cao. Trong đó, thời hạn để Thẩm phán chủ tọa phiên tòa ra một trong các quyết định như quyết định đưa vụ án ra xét xử, quyết định trả hồ sơ để điều tra bổ sung, quyết định đình chỉ hoặc tạm đình chi vụ án là ba mươi ngày đối với tội phạm ít nghiêm ưọng, bốn mươi lăm ngày đối với tội phạm nghiêm trọng, hai tháng đối với tội phạm rất nghiêm trọng, ba tháng đối với tội phạm đặc biệt nghiêm trọng kể từ ngày nhận hồ sơ vụ án.
(ii) Đối với vụ án phức tạp, có nhiều tình tiết khố đánh giá thống nhất về tính chất vụ án cố liên quan đến nhiều cấp, nhiều ngành mà Thẩm phán chưa thể ra được một trong các quyết định trong thời hạn nêu trên thì Thẩm phán báo cáo Chánh án xin gia hạn thời hạn chuẩn bị xét xử.
Chánh án Tòa án có thể quyết định gia hạn thời hạn chuẩn bị xét xử nhưng không quá mười lăm ngày đối với tội phạm ít nghiêm trọng và tội phạm nghiêm trọng, không quá ba mươi ngày đối với tội phạm rất nghiêm trọng và tội phạm đặc biệt nghiêm trọng. Tòa án phải thông báo ngay việc gia hạn thời hạn chuẩn bị xét xử cho Viện kiểm sát cùng cấp biết. Việc thông báo này giúp cho Viện kiểm sát thực biện tốt chức năng kiểm sát xét xử và chủ động trong việc tham gia phiên tòa.
Trong trường hợp vụ án được trả lại để điều tra bổ sung mà Viện kiểm sát sau khi điểu tra xong đã trả lại hồ sơ cho Tòa án, thì thẩm phán phải ra quyết định đưa vụ án ra xét xử trong thối hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được hồ sơ.
(iii) Sau khi ra quyết định đưa vụ án ra xét xử, Tòa án phải mở phiên tòa trong thời hạn mười lăm ngày kể từ ngày có quyết định đưa vụ án ra xét xử. Trong trường hợp có lý do chính đáng như người tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng (bị cáo, người bị hại, người làm chứng quan trọng) không thể tham gia phiên tòa trong ngày xét xử hoặc việc chuẩn bị cơ sở vật chất cho phiên tòa không kịp ngày đã ấn định... thì Tòa án có thể mở phiên tòa trong thời hạn ba mươi ngày.
Khuyến nghị của Công ty Luật TNHH Everest:
- Bài viết trong lĩnh vực hình sự (nêu trên) được luật sư, chuyên gia của Công ty Luật TNHH Everest thực hiện nhằm mục đích nghiên cứu khoa học hoặc phổ biến kiến thức pháp luật, hoàn toàn không nhằm mục đích thương mại.
- Bài viết có sử dụng những kiến thức hoặc ý kiến của các chuyên gia được trích dẫn từ nguồn đáng tin cậy. Tại thời điểm trích dẫn những nội dung này, chúng tôi đồng ý với quan điểm của tác giả. Tuy nhiên, quý Vị chỉ nên coi đây là những thông tin tham khảo, bởi nó có thể chỉ là quan điểm cá nhân người viết.
- Trường hợp cần giải đáp thắc mắc về vấn đề có liên quan, hoặc cần ý kiến pháp lý cho vụ việc cụ thể, Quý vị vui lòng liên hệ với chuyên gia, luật sư của Công ty Luật TNHH Everest qua Tổng đài tư vấn pháp luật 1900 6198, E-mail: [email protected].
Bình luận