Viện kiểm sát rút quyết định truy tố tại phiên tòa

Tại phiên toà, sau phần xét hỏi, Viện kiểm sát có thể rút toàn bộ hoặc một phần quyết định truy tố theo quy định tại điều 195 Bô luật tố tụng hình sự 2003 (BLTTHS).

Ở đây chúng tôi không bàn đến hậu quả của việc rút quyết định truy tố mà xin được đưa ra quan điểm tranh luận thế nào là rút một phần và rút toàn bộ quyết định truy tố thông qua vụ án cụ thể sau đây:

A và B cùng bị truy tố trong một vụ án giết người có đồng phạm. Tại phiên toà, sau phần xét hỏi, Viện kiểm sát rút quyết định truy tố đối vớ B về tội giết người với căn cứ không đủ chứng cứ kết luận B đồng phạm với A trong vụ án giết người này và giữ nguyên quyết định truy tố đối với A. Xung quanh vụ án này có hai quan điểm khác nhau. Quan điểm thứ nhất cho rằng đây là trường hợp VKS rút một phần quyết định truy tố. Do đó sau khi xét hỏi và tranh luận nếu they đủ chứng cứ cho thấy B đồng phạm với A về tội giết người thì Toà án có quyền kết tội B. Quan điểm này dựa trên kết luận của tài liệu tập huấn Bộ luật TTHS 2003 của Toà án nhân dân tối cao: “Lưu ý: Viện kiểm sát rút quyết định truy tố tức là rút toàn bộ quyết định truy tố (cáo trạng)…”.

Quan điểm thứ hai cho rằng: Đây là trường hợp Viên kiểm sát rút tòan bộ quyết định truy tố về tội giết người đối với B. Do đó nếu có đủ chứng cứ chứng minh B đồng phạm đối với A thì Toà án cũng không được ra bản án kết tội B mà giải quyết theo điều 222 BLTTHS.
>>>Luật sư tư vấn pháp luật qua tổng đài (24/7) gọi: 1900 6218
>>>Luật sư tư vấn pháp luật qua tổng đài (24/7) gọi: 1900 6198

Chúng tôi đồng ý với quan điểm thứ hai bởi các lý do sau đây:

Thứ nhất: Không nên đồng nhất giữa bản cáo trạng và quyết định truy tố. Bản cáo trạng là là văn bản áp dụng pháp luật là một trong những hình thức pháp lý của hoạt động thực hành quyền công tố. Trong một bản cáo trạng có thể chứa một hoặc nhiều quyết định truy tố một hoặc nhiều bị can. Ví dụ: Bản cáo trạng số 01 của Viện kiểm sát huyện X quyết định truy tố bị can X, quyết định truy tố bị can Y…Với cách lập luận này thì rút toàn bộ cáo trạng tức là rút toàn bộ quyết định truy tố. Còn rút một phần cáo trạng có thể là rút toàn bộ quyết định truy tố có thể là rút một phần quyết định truy tố. Chính vì đồng nhất giữa bản cáo trạng với quyết định truy tố dẫn đến việc cho rằng trong vụ án trên viện kiểm sát rút quyết định truy tố bị cáo B là rút một phần cáo trạng và cũng là rút một phần quyết định truy tố. Trường hợp này cần nhận thức: Viện kiểm sát đã rút toàn bộ quyết định truy tố đối với B và rút một phần cáo trạng.

Việc đồng nhất giữa quyết định truy tố và cáo trạng có lẽ còn xuất phát từ việc quy định không giống nhau giữa các điều 195 , 217 với khoản 1 điều 221 BLTTHS. Cụ thể: điều 195, 217 dùng cụm từ “rút một phần quyết định truy tố” còn khoản điều 221 lại dùng cụm từ “một phần nội dung cáo trạng”.

Giả sử, nếu cũng vụ án trên tại giai đoạn điều tra, B bỏ trốn. Cơ quan điều tra tách vụ án đối với B để giải quyết sau. Viện kiểm sát truy tố A bằng bản cáo trạng số 01 toà án đã xét xử và kết tội A. Sau đó bắt được B. Viện kiểm sát truy tố B bằng bản cáo trạng số 02. Trước khi mở phiên toà hoặc tại phiên toà, Viện kiểm sát rút quyêt định truy tố B. Đến đây, xuất hiện sự bất hợp lý là chỉ vì bị truy tố trong một bản cáo trạng với A mà B (ở trường hợp bị xét xử cùng A) vẫn bị kết tội và chỉ do bỏ trốn bị truy tố riêng bằng bản cáo trạng khác mà khi rút truy tố B được đình chỉ vụ án. Như vậy, quan điểm đồng nhất cáo trạng và quyết định truy tố và coi đây là trường hợp VKS rút một phần quyết định truy tố đối với B và vẫn xét xử kết tội bị cáo B rõ ràng khó được chấp nhận về phương diện thực tiễn và lý luận.

Thứ hai: Truy tố là một trong những chức năng của quyền công tố. Theo PGS.TS Trần Văn Độ thì: “quyền công tố mang tính cụ thể tức là chỉ xuất hiện trong trường hợp tội phạm cụ thể đã được thực hiện và đối với người phạm tội cụ thể. Không tồn tại quyền công tố chung chung”. Từ quan điểm khoa học này liên hệ với vụ án trên cho thấy: Mặc dù A và B cùng bị truy tố về tội giết người trong vụ án đồng phạm song vị trí, vai trò, , mức độ tham gia trong vụ án, tính chất của hành vi, nhân thân, khả năng giáo dục cải tạo… của mỗi bị cáo khác nhau. Do đó, không thể tồn tại một quyết định truy tố cho chung cho cả hai bị cáo mà chỉ có quyết định truy tố bị cáo A, quyết định truy tố bị cáo B. Hai quyết định truy tố này được thể hiện trong một bản cáo trạng. Vì vậy, Viện kiểm sát rút quyết định truy tố bị cáo B tại phiên toà phải được coi là trường hợp rút toàn bộ quyết định truy tố đối với B và rút một phần bản cáo trạng. Khi Viện kiểm sát đã rút toàn bộ quyết định truy tố đối với B có nghĩa là không tồn tại việc buộc tội trước toà đối với B nữa. Không truy tố, không duy trì việc buộc tội trước toà thì toà án không thể kết tội. Nếu toà án vẫn kết tội B sẽ vi phạm nguyên tắc: Thực hành quyền công tố tụng tố tụng hình sự- Một nguyên tắc mới được bổ sung trong Bộ luật TTHS 2003.

Cuối cùng xin bàn về điều 195 BLTTHS khi điều này cho phép Hội đồng xét xử vẫn xét xử toàn bộ vụ án ngay cả khi Viện kiểm sát đã rút toàn bộ truy tố. Bản chất của xét xử ngay cả xét xử vụ án hình sự đi chăng nữa đều là việc toà án như một trọng tài đứng ra phân xử và phán quyết khi tồn tại sự cáo buộc của bên này với bên kia. Chức năng xét xử của toà án chỉ có hai mục đích là nhân danh công lý và nhà nước kết luận một người phạm tội hay không phạm tội. Tuyên bố một người phạm tội nào đó phải dựa trên sự buộc tội và tất nhiên cần xét xử. Ngược lại không có sự buộc tội thì sự tuyên bố của toà án sẽ không có ý nghĩa bởi không ai buộc tội bị cáo thì đương nhiên họ không có tội và không cần thiết phải xét xử. Đối với trường hợp sau khi xét hỏi Viện kiểm sát rút toàn bộ truy tố thì đương nhiên phiên toà không có luận tội của Viện kiểm sát và hệ quả logic là sẽ không có tranh luận giữa viện kiểm sát và bị cáo, người bào chữa, ngưòi bị hại…mà toà án vẫn ra bản án thì bản án đó có thể coi là trái pháp luật. Chính vì vậy, quy định tại điều 195 BLTTHS nếu viện kiểm sát rút toàn bộ truy tố tại phiên toà thì toà án vẫn xét xử, nếu bị cáo không có tội thì tuyên bố bị cáo vô tội cần xem xét về tính hợp lý của nó. Mặt khác, nếu viện kiểm sát rút truy tố mà toà án vẫn xét xử và kết tội, toà án sẽ làm thay chức năng buộc tội của Viện kiểm sát dẫn đến tình trạng toà vừa buộc tội, vừa xét xử và tạo ra một hệ thống 3 cơ quan buộc tội (Điều tra, Kiểm sát, Toà án) ảnh hưởng đến tính khách quan, độc lập xét xử của toà án, xâm phạm đến quyền lợi của người bị buộc tội.

Trên đây là nhận thức của chúng tôi xung quanh vấn đề rút truy tố, rút một phần truy tố và cách giải quyết vụ án hình sự khi Viện kiểm sat rút quyết định truy tố trước và tại phiên toà sơ thẩm dựa trên các quy định của Bộ luật TTHS hiện hành.

Nguồn: luatsubaochua.vn 

Quý vị tìm hiểu thêm thông tin chi tiết hoặc liên hệ với Luật sư, Luật gia của Công ty Luật TNHH Everest để yêu cầu cung cấp dịch vụ:
  1. Địa chỉ: Tầng 19 Tòa nhà Thăng Long Tower, 98 Ngụy Như Kom Tum, Thanh Xuân, Hà Nội
  2. Văn phòng giao dịch: Tầng 2, Toà nhà Ngọc Khánh, 37 Nguyễn Sơn, Long Biên, Hà Nội
  3. Điện thoại: (04) 66.527.527 - Tổng đài tư vấn pháp luật: 1900-6198
  4. E-mail:[email protected], hoặc E-mail: [email protected].