Quy định của pháp luật về đối tượng tạm giữ theo Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2003

Trong trường hợp người bị bắt phạm tội quả tang nhưng sự việc phạm tội nhỏ, tính chất ít nghiêm trọng, người bị bắt có nơi cư trú rõ ràng và không có hành động, biểu hiện sẽ cản trở công việc điều tra thì sẽ không cần tạm giữ.

Theo Điều 86 Bộ luật tố tụng hình sự (BLTTHS) năm 2003 thì đối tượng có thể bị áp dụng biện pháp tạm giữ là người bị bắt trong trường hợp khẩn cấp hoặc phạm tội quả tang, người phạm tội tự thú, đầu thú hoặc đối với người bị bắt theo lệnh truy nã.
>>>Luật sư tư vấn pháp luật qua tổng đài (24/7) gọi: 1900 6198
>>>Luật sư tư vấn pháp luật qua tổng đài (24/7) gọi: 1900 6198

Trong trường hợp người bị bắt phạm tội quả tang nhưng sự việc phạm tội nhỏ, tính chất ít nghiêm trọng, người bị bắt có nơi cư trú rõ ràng và không có hành động, biểu hiện sẽ cản trở công việc điều tra thì sẽ không cần tạm giữ. Người bị bắt trong trường hợp khẩn cấp thường phải bị tạm giữ. Người bị bắt theo lệnh truy nã chỉ bị tạm giữ khi cơ quan đã ra lệnh truy nã không thể đến ngay để nhận người bị bắt.

BLTTHS hiện hành không quy định cụ thể việc áp dụng biện pháp tạm giữ người bị bắt theo lệnh truy nã nhưng do tính chất là biện pháp ngăn chặn gắn liền với việc bắt người trong các trường hợp khẩn cấp hoặc phạm tội quả tang nên đối với trường hợp này, nếu đủ căn cứ và hợp pháp thì áp dụng biện pháp tạm giữ.

Trong trường hợp người phạm tội là đại biểu Quốc hội thì khi không có sự đồng ý của Quốc hội và trong thời gian Quốc hội họp, không có sự đồng ý của Uỷ ban thường vụ Quốc hội thì không được bắt giam, truy tố đại biểu Quốc hội. Nếu vì phạm tội quả tang mà đại biểu Quốc hội bị tạm giữ thì cơ quan tạm giữ phải lập tức báo cáo để Quốc hội hoặc Uỷ ban thường vụ Quốc hội xem xét và quyết định (Điều 55 Luật tổ chức Quốc hội).

Việc tạm giữ đối với người chưa thành niên phạm tội phải tuân theo quy định tại Điều 303 BLTTHS năm 2003: “Người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi có thể bị tạm giữ nếu có đủ căn cứ tại Điều 86 BLTTHS năm 2003 nhưng chỉ trong những trường hợp phạm tội rất nghiêm trọng do cố ý hoặc đặc biệt nghiêm trọng. Người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi có thể bị tạm giữ nếu có đủ căn cứ tại Điều 86 BLTTHS năm 2003 nhưng chỉ trong trường hợp phạm tội nghiêm trọng do cố ý, phạm tội rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng”.

Tuy nhiên, người chưa thành niên phạm tội bị bắt theo quyết định truy nã có thể là người trước đây đã có lệnh bắt hoặc đã bị bắt, bị tạm giữ, tạm giam thậm chí đang thi hành án phạt tù thì bỏ trốn. Họ có thể là bị can, bị cáo tại ngoại nhưng trốn tránh hoạt động điều tra, truy tố, xét xử của viện kiểm sát, toà án. Đối với họ, cơ quan điều tra đã tự mình hoặc theo yêu cầu của viện kiểm sát ra quyết định truy nã. Do vậy, việc tạm giữ họ không nên phụ thuộc vào loại tội mà họ thực hiện, nghĩa là nếu họ thực hiện tội ít nghiêm trọng nhưng ra tự thú, đầu thú hoặc bị bắt theo quyết định truy nã thì vẫn có thể bị tạm giữ.

Trong thực tế, tình trạng tạm giữ không đúng đối tượng còn diễn ra, tạm giữ cả những trường hợp bị bắt khi phạm tội quả tang những sự việc phạm tội nhỏ, tính chất ít nghiêm trọng hay tạm giữ cả những người bị bắt có nơi cư trú rõ ràng và không có hành động, biểu hiện sẽ cản trở việc điều tra.

(Nguồn:Tạp chí Luật học số 07 (2008))

Quý vị tìm hiểu thêm thông tin chi tiết hoặc liên hệ với Luật sư, Luật gia của Công ty Luật TNHH Everest để yêu cầu cung cấp dịch vụ:
  1. Địa chỉ: Tầng 19 Tòa nhà Thăng Long Tower, 98 Ngụy Như Kom Tum, Thanh Xuân, Hà Nội
  2. Văn phòng giao dịch: Tầng 2, Toà nhà Ngọc Khánh, 37 Nguyễn Sơn, Long Biên, Hà Nội
  3. Điện thoại: (04) 66.527.527 - Tổng đài tư vấn pháp luật: 1900-6218
  4. E-mail:[email protected], hoặc E-mail: [email protected].