So với BLTTHS năm 1988, BLTTHS năm 2003 đã quy định chặt chẽ hơn căn cứ và điều kiện áp dụng các biện pháp ngăn chặn, đề cao hơn trách nhiệm của các cơ quan có thẩm quyền trong việc áp dụng các biện pháp ngăn chặn, nhất là trách nhiệm của Viện kiểm sát
Về vấn đề phê chuẩn việc bắt người trong trường hợp khẩn cấp: Theo quy định tại khoản 4 Điều 81 BLTTHS, trong mọi trường hợp, việc bắt khẩn cấp phải được báo ngay cho Viện kiểm sát cùng cấp bằng văn bản kèm theo tài liệu liên quan đến việc bắt khẩn cấp để xét phê chuẩn. Trong thời hạn 12 giờ, kể từ khi nhận được đề nghị xét phê chuẩn và tài liệu liên quan đến việc bắt khẩn cấp, Viện kiểm sát phải ra quyết định phê chuẩn hoặc quyết định không phê chuẩn. Nếu Viện kiểm sát quyết định không phê chuẩn thì người ra lệnh bắt phải trả tự do ngay cho người bị bắt.
>>> Luật sư tư vấn pháp luật qua tổng đài (24/7) gọi: 1900 6198
Theo quy định tại khoản 1 Điều 83 BLTTHS, sau khi bắt hoặc nhận người bị bắt trong trường hợp khẩn cấp..., cơ quan điều tra phải lấy lời khai ngay và trong thời hạn 24 giờ phải ra quyết định tạm giữ hoặc trả tự do cho người bị bắt. Với những quy định trên có thể thấy, trong các trường hợp bắt khẩn cấp được BLTTHS quy định thì sau khi việc bắt khẩn cấp đã được thực hiện và Cơ quan điều tra đã lấy lời khai của người bị bắt, thì Viện kiểm sát mới xem xét, quyết định việc phê chuẩn hay không phê chuẩn việc bắt khẩn cấp. Đây là điều không hợp lý. Theo chúng tôi, bắt khẩn cấp là một hoạt động độc lập với hoạt động tạm giữ. Sau khi bắt khẩn cấp sẽ là việc xem xét có tạm giữ người bị bắt hay không cho nên việc phê chuẩn của Viện kiểm sát sau khi việc bắt khẩn cấp đã được thực hiện thực chất là phê chuẩn việc tạm giữ đối với người đã bị bắt khẩn cấp vì nếu Viện kiểm sát phê chuẩn thì người bị bắt khẩn cấp sẽ bị tạm giữ, còn nếu Viện kiểm sát không phê chuẩn thì người bị bắt khẩn cấp sẽ phải được trả tự do.
Về thông báo việc bắt, tạm giữ: Điều 83 BLTTHS quy định:“Người ra lệnh bắt, Cơ quan điều tra nhận người bị bắt phải thông báo ngay cho gia đình người bị bắt, chính quyền xã, phường, thị trấn hoặc cơ quan, tổ chức nơi người đó cư trú hoặc làm việc biết. Nếu thông báo cản trở việc điều tra thì sau khi cản trở đó không còn nữa, người ra lệnh bắt, Cơ quan điều tra nhận người bị bắt phải thông báo ngay”. Nghiên cứu quy định trên có thể thấy, thông báo về việc bắt thực chất chỉ được thực hiện sau việc bắt đã được thực hiện và người bị bắt đang bị tạm giữ. Quy định về việc “phải thông báo ngay” không có định lượng về khoản thời gian xác định nên dễ bị áp dụng tuỳ tiện. Một số đối tượng như người không có hoặc không xác định được gia đình, nơi cư trú, làm việc; người nước ngoài bị bắt, tạm giữ... thì việc thông báo việc bắt, tạm giữ cho ai cũng chưa được xác định rõ. Sau khi bị tạm giữ, theo quy định tại Điều 48 BLTTHS, người bị tạm giữ có quyền nhờ người khác bào chữa, song cơ chế để người bị bắt, tạm giữ yêu cầu cơ quan bắt, tạm giữ thông báo cho người bào chữa để họ thực hiện việc bào chữa cho người bị bắt, tạm giữ cũng chưa được xác định cụ thể.
Về căn cứ áp dụng biện pháp tạm giam: Cùng với căn cứ áp dụng biện pháp ngăn chặn nói chung được quy định tại Điều 79 BLTTHS, Điều 88 và Điều 303 BLTTHS quy định về các điều kiện để tạm giam. Nghiên cứu các quy định này có thể thấy một số điểm chưa phù hợp.Một là, theo quy định tại khoản 1 Điều 88 BLTTHS, tạm giam có thể được áp dụng đối với bị can, bị cáo trong trường hợp bị can, bị cáo phạm tội đặc biệt nghiêm trong, phạm tội rất nghiêm trọng. Về nguyên tắc, việc có áp dụng tạm giam trong trường hợp bị can, bị cáo phạm tội đặc biệt nghiêm trong hoặc phạm tội rất nghiêm trọng hay không phải căn cứ vào cả quy định tại Điều 79 BLTTHS. Tuy nhiên, vì Điều 79 BLTTHS là quy định về những căn cứ chung để áp dụng cho tất cả các biện pháp ngăn chặn nên thông thường người áp dụng pháp luật chỉ dựa vào Điều 88 BLTTHS để xác định có quyết định tạm giam bị can, bị cáo hay không. Trên thực tế, nhiều trường hợp khi xem xét, quyết định việc tạm giam người phạm tội khó có thể xác định chính xác ngay người đó phạm tội rất nghiêm trọng hay đặc biệt nghiêm trọng không (việc xác định trong nhiều trường hợp phải qua quá trình điều tra, chứng minh, xác định sự thật khách quan của vụ án). Ngay cả trong trường hợp tại thời điểm xem xét, quyết định việc tạm giam đã xác định được chính xác một người phạm tội đặc biệt nghiêm trọng hoặc phạm tội rất nghiêm trọng nhưng nếu không có căn cứ để cho rằng người đó có thể sẽ sẽ gây khó khăn cho việc điều tra, truy tố, xét xử hoặc sẽ tiếp tục phạm tội hoặc sẽ bỏ trốn, thì cũng không cần thiết phải tạm giam. Do vậy, nếu coi một người phạm tội đặc biệt nghiêm trọng hoặc phạm tội rất nghiêm trọng là điều kiện để có thể tạm giam thì có thể xảy ra những trường hợp lạm dụng quy định này để tạm giam cả đối với người không cần thiết phải tạm giam.Hai là, theo quy định tại điểm b khoản 1 Điều 88 BLTTHS, tạm giam có thể được áp dụng đối với bị can, bị cáo trong trường hợp bị can, bị cáo phạm tội nghiêm trọng, phạm tội ít nghiêm trọng mà BLHS quy định hình phạt tù trên hai năm và có căn cứ cho rằng người đó có thể trốn hoặc cản trở việc điều tra, truy tố, xét xử hoặc có thể tiếp tục phạm tội. Theo chúng tôi, quy định này cũng cần được xem xét lại vì vào thời điểm xem xét, tạm giam một người có thể chưa xác định được chính xác tính chất tội phạm mà người đó thực hiện là tội phạm loại gì. Trường hợp đã xác định được chính xác một người phạm tội ít nghiêm trọng, nhưng BLHS quy định hình phạt tù từ hai năm tù trở xuống và có căn cứ cho rằng người đó có thể trốn hoặc cản trở việc điều tra, truy tố, xét xử hoặc có thể tiếp tục phạm tội và không thể áp dụng các biện pháp ngăn chặn khác, thì theo quy định tại điểm b khoản 1 Điều 88 BLTTHS, cũng không thể áp dụng biện pháp tạm giam. Đây là quy định không phù hợp, vì gây khó khăn cho việc điều tra và giải quyết vụ án, nhất là đối với những trường hợp người phạm tội không có nơi cư trú, làm việc ổn định hoặc không xác định được nơi cư trú, làm việc của người phạm tội.Ba là, theo quy định tại khoản 2 Điều 303 BLTTHS, người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi có thể bị tạm giam trong những trường hợp phạm tội nghiêm trọng do cố ý, phạm tội rất nghiêm trọng hoặc phạm tội đặc biệt nghiêm trọng. Chúng tôi cho rằng, quy định này cũng cần được xem xét lại vì, như chúng tội đã phân tích, tại thời điểm xem xét, quyết định tạm giam một người, cơ quan có thẩm quyền khó có thể xác định chính xác ngay tính chất tội phạm mà người đó đã thực hiện.
Trong trường hợp xác định được chính xác tính chất tội phạm mà người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi thực hiện không thuộc trường hợp phạm tội nghiêm trọng do cố ý, phạm tội rất nghiêm trọng hoặc phạm tội đặc biệt nghiêm trọng và có căn cứ cho rằng người đó có thể trốn hoặc cản trở việc điều tra, truy tố, xét xử hoặc có thể tiếp tục phạm tội và không thể áp dụng các biện pháp ngăn chặn khác, thì theo quy định tại khoản 2 Điều 303, cũng không thể áp dụng biện pháp tạm giam. Đây là điều không phù hợp. Trên thực tế, đã xảy ra những trường trường hợp người từ đủ 16 tuổi nhưng chưa đủ 18 tuổi thực hiện tội phạm ít nghiêm trọng do cố ý hoặc tội nghiêm trọng do vô ý như phạm tội cố ý gây thương tích (khoản 1 Điều 104), tội trộm cắp tài sản (khoản 1 Điều 138 BLHS), tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản (khoản 1 Điều 139 BLHS), tội đua xe trái phép (khoản 1 Điều 207 BLHS), tội gây rối trật tự công cộng (khoản 1 Điều 245 BLHS), tội đánh bạc (khoản 1 Điều 248 BLHS), tội chống người thi hành công vụ (khoản 1 Điều 257 BLHS), tội vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ (khoản 1 Điều 202 BLHS)... Đối với những trường hợp này, mặc dù xác định được người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi không có nơi cư trú, làm việc ổn định hoặc không xác định được nơi cư trú, làm việc của người phạm tội và có căn cứ cho rằng người đó có thể trốn hoặc cản trở việc điều tra, truy tố, xét xử hoặc có thể tiếp tục phạm tội và cũng không thể áp dụng các biện pháp ngăn chặn khác thì các cơ quan tiến hành tố tụng cũng không thể áp dụng biện pháp tạm giam đối với họ.Như vậy, vấn đề đặt ra là do hạn chế của các quy định của BLTTHS mà nhiều trường hợp người phạm tội không thể bị áp dụng bất cứ biện pháp ngăn chặn nào, họ phạm tội nhưng vẫn ở ngoài xã hội và có thể tiếp tục phạm tội. Việc không áp dụng được biện pháp ngăn chặn đối với họ cũng đã gây không ít khó khăn cho việc điều tra, truy tố, xét xử vụ án mà bị can, bị cáo thuộc các đối tượng người chưa thành niên từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi.
Về thẩm quyền ra lệnh bắt bị can, bị cáo để tạm giam và ra lệnh tạm giam: Trong số các biện pháp ngăn chặn thì biện pháp tạm giam là biện pháp nghiêm khắc nhất, nó tác động đến một trong những quyền cơ bản nhất của công dân là quyền tự do về thân thể. Không phải ngẫu nhiên mà pháp luật tố tụng hình sự các nước quy định đối tượng được quyền quyết định áp dụng biện pháp này rất hạn chế (nhiều nước quy định việc có áp dụng biện pháp tạm giam hay không phải được đưa ra Toà án xem xét, quyết định). Theo quy định tại khoản khoản 1 Điều 80 và khoản 3 Điều 88 BLTTHS, những người có thẩm quyền ra lệnh bắt bị can, bị cáo để tạm giam và ra lệnh tạm giam bao gồm cả Thủ trưởng, Phó Thủ trưởng Cơ quan điều tra, Viện trưởng, Phó Viện trưởng Viện Kiểm sát, Chánh án, Phó Chánh án Toà án các cấp. Theo chúng tôi, quy định phạm vi chủ thể được ra lệnh tạm giam như vậy là quá rộng. BLTTHS cần được sửa đổi, bổ sung theo hướng thu hẹp phạm vi đối tượng chủ thể được ra lệnh tạm giam. Trong giai đoạn điều tra, việc ra lệnh bắt bị can để tạm giam và ra lệnh tạm giam chỉ nên giao cho Viện trưởng Viện kiểm sát. Thay vì việc Thủ trưởng, Phó Thủ trưởng cơ quan điều tra có quyền ra lệnh bắt bị can để tạm giam và ra lệnh tạm giam như quy định của BLTTHS hiện hành thì chỉ nên quy định cho các chủ thể này có nghĩa vụ thu thập các tài liệu, chứng cứ để đề nghị Viện trưởng Viện kiểm sát ra quyết định bắt bị can để tạm giam và ra lệnh tạm giam. Vì biện pháp tạm giam là biện pháp ngăn chặn đặc biệt nên cũng không nên giao cho Phó Viện trưởng Viện kiểm sát được quyền ra lệnh bắt bị can để tạm giam và ra lệnh tạm giam mà chỉ nên giao thẩm quyền này cho Viện trưởng Viện kiểm sát. Chỉ trong trường hợp Viện trưởng Viện kiểm sát vắng mặt thì một Phó Viện trưởng được Viện trưởng uỷ nhiệm mới được quyền ra lệnh bắt bị can để tạm giam và ra lệnh tạm giam. Trong giai đoạn hồ sơ vụ án chuyển Toà án chuẩn bị xét xử thì chỉ nên quy định cho Thẩm phán giữ chức vụ Chánh án Toà án các cấp và Chánh toà Toà phúc thẩm Toà án nhân dân tối cao được quyền ra lệnh bắt bị cáo để tạm giam và ra lệnh tạm giam. Tại phiên toà xét xử, thẩm quyền này thuộc về Hội đồng xét xử,
Về biện pháp bảo lĩnh: Điều 92 BLTTHS quy định về biện pháp bảo lĩnh, với tính cách là một trong những biện pháp ngăn chặn để thay thế biện pháp tạm giam. Nghiên cứu quy định về bảo lĩnh tại điều luật trên có thể thấy một số hạn chế cần được xem xét lại để sửa đổi, bổ sung như sau: Một là, theo quy định tại Điều 92, Tổ chức có thể nhận bảo lĩnh cho bị can, bị cáo là thành viên của tổ chức của mình. Trong trường hợp Tổ chức nhận bảo lĩnh vi phạm nghĩa vụ đã cam đoan phải chịu trách nhiệm về nghĩa vụ đã cam đoan. Trên thực tế, việc áp dụng biện pháp cho Tổ chức nhận bảo lĩnh hầu như không được thực hiện, bởi lẽ, không và khó có thể thiết lập được cơ chế ràng buộc trách nhiệm của Tổ chức khi Tổ chức nhận bảo lĩnh vi phạm nghĩa vụ đã cam đoan. Nghiên cứu pháp luật tố tụng hình sự nhiều nước, chúng tôi không thấy có quy định về việc cho Tổ chức được nhận bảo lĩnh. Theo chúng tôi, để bảo đảm tính khả thi, Điều 92 BLTTHS cần được sửa đổi, bổ sung theo hướng bỏ quy định về việc Tổ chức được nhận bảo lĩnh.Hai là, theo quy định tại Điều 92 BLTTHS, khi nhận bảo lĩnh người nhận bảo lĩnh phải làm giấy cam đoan không để bị can, bị cáo tiếp tục phạm tội và bảo đảm sự có mặt của bị can, bị cáo theo giấy triệu tập của Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát hoặc Toà án. Với việc được nhận bảo lĩnh, bị can, bị cáo được nhận bảo lĩnh không bị cách ly khỏi xã hội nên ngoài việc có thể trốn và tiếp tục phạm tội, bị can, bị cáo được nhận bảo lĩnh có thể có những hành vi gây cản trở cho hoạt động điều tra, xét xử. Do vậy, theo chúng tôi, cần bổ sung vào điều luật này nghĩa vụ của người nhận bảo lĩnh là phải cam đoan không để bị can, bị cáo gây cản trở cho việc điều tra, truy tố, xét xử bằng những hành vi như can thiệp đối với nhân chứng để họ khai báo gian dối hoặc cố ý tiêu huỷ, làm sai lệch đồ vật, tài liệu được coi là chứng cứ của vụ án hoặc tác động đến bị can, bị cáo khác để họ khai báo gian dối...Ba là, Vì biện pháp bảo lĩnh gắn với nghĩa vụ của cả người nhận bảo lĩnh và người được nhận bảo lĩnh nên cần có sự đồng ý va cam kết thực hiện nghĩa vụ từ hai phía: người nhận bảo lĩnh và bị can, bị cáo được nhận bảo lĩnh. Điều 92 BLTTHS hiện hành chưa quy định việc bị can, bị cáo được nhận bảo lĩnh phải đồng ý đối với việc người khác nhận bảo lĩnh cho mình và cam đoan thực hiện những nghĩa vụ nhất định. Những nội dung này cần được bổ sung cho phù hợp.
Về biện pháp đặt tiền hoặc tài sản có giá trị để bảo đảm: Theo quy định tại điều 93 BLTTHS, đặt tiền hoặc tài sản có giá trị để bảo đảm là một trong những biện pháp ngăn chặn áp dụng đối với bị can, bị cáo để thay thế biện pháp tạm giam và bảo đảm sự có mặt của họ theo giấy triệu tập của Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Toà án. Nghiên cứu quy định tại Điều 93 BLTTHS, chúng tôi nhận thấy thấy quy định này cần được xem xét để sửa đổi, bổ sung cho phù hợp hơn với thực tế: Một là, nếu coi đây là biện pháp để thay thế và góp phần hạn chế việc áp dụng biện pháp tạm giam thì cũng phải coi mục đích của việc áp dụng biện pháp này không chỉ là bảo đảm sự có mặt của bị can, bị cáo khi Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Toà án triệu tập người đó mà còn là để bảo đảm họ không tiếp tục phạm tội (nếu bị can, bị cáo phạm tội thì số tiền hoặc tài sản đã đặt sẽ bị tịch thu sung quỹ Nhà nước và bị can, bị cáo sẽ bị áp dụng biện pháp ngăn chặn khác). Hai là, để góp phần hạn chế việc áp dụng biện pháp tạm giam cần mở rộng phạm vi áp dụng các biện pháp ngăn chặn khác, trong đó có việc mở rộng đối tượng được đặt tiền hoặc tài sản có giá trị để bảo đảm. Theo chúng tôi, ngoài bị can, bị cáo, nên mở rộng đối tượng đặt tiền hoặc tài sản có giá trị để bảo đảm cho cả tổ chức và cá nhân khác (coi đây như một dạng “bảo lĩnh” bằng tiền hoặc tài sản).
( Nguồn: Tiến sĩ Phạm Mạnh Hùng-Viện kiểm sát nhân dân tối cao)
Quý vị tìm hiểu thêm thông tin chi tiết hoặc liên hệ với Luật sư, Luật gia của Công ty Luật TNHH Everest để yêu cầu cung cấp dịch vụ:
- Địa chỉ: Tầng 19 Tòa nhà Thăng Long Tower, 98 Ngụy Như Kom Tum, Thanh Xuân, Hà Nội
- Văn phòng giao dịch: Tầng 2, Toà nhà Ngọc Khánh, 37 Nguyễn Sơn, Long Biên, Hà Nội
- Điện thoại: (04) 66.527.527 - Tổng đài tư vấn pháp luật: 1900-6218
- E-mail:[email protected], hoặc E-mail: [email protected].
Bình luận